Là một truyện ngắn hay, Vơ nhặt của Kim Lân đã thu hút sự chú ý của đông đảo người yêu văn chương. Không ít vẻ đẹp sâu xa của văn phẩm đã được khám phá. Riêng một khâu tình huống truyện không thôi, người ta cũng đã "nhặt" được khá nhiều điều lí thú. Song, người đến sau không phải đã hết hi vọng. "Muốn ăn cơm trắng mấy giò này..." câu hò của Tràng, một cách không ngờ, dường như muốn mời mọc... cả những cây bút nghiên cứu phê bình.
Tôi nhớ Nguyễn Minh Châu ở đâu đó, bằng cách nói hình ảnh đặc thù của người sáng tác, đă xem tình huống truyện như "một khúc của đời sống”, " một lát cắt của đời sống" mà qua đó ta có thể hình dung trăm năm của đời thảo mộc. Ý ông muốn nhấn mạnh vào tính nghịch lí của nó: tuy chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi, song lại giúp người ta có thể hình dung được diện mạo toàn thể của cả đời sống. Người làm lí luận thì hình dung tình huống như hạt nhân cấu trúc của thế loại truyện ngắn, nó sắm vai một nhà tổ chức đối với toàn bỏ thiên truyện. Chung qui, tình huống vẫn được hiểu như một loại sự kiện đặc biệt của đời sống được sáng tạo ra theo hướng lạ hoá. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật được hiện hình ảnh sắc nét, ý nghĩa tư tưởng được phát lộ toàn vẹn. Người viết có được một tình huống đặc sắc là đã có được một tiền đề khá chắc chắn cho thành công của một truyện ngắn. Còn người đọc nắm được tình huống thì xem như có một chìa khoá tin cậy để mở vào thế giới bí ẩn của tác phẩm.
Dễ thấy rằng hạt nhân của truyện ngắn Vợ nhặt là một cuộc hôn nhân kì lạ. Thực ra, hôn nhân kì lạ và những mối kì duyên vốn là mô típ rất phổ biến trong văn chương nghệ thuật, ở văn học dân gian, những mối tình Tiên Dung - Chử Đồng Tử. Từ Thức - Giáng Hương, Thạch Sanh - Quỳnh Nga, Lọ Lem - Hoàng Tử, Cô Tấm - Nhà vua, Sọ Dừa - Con gái Phú Ông. V. V... Hay những cuộc hôn nhân trong thế giới Truyện Nôm những Tống Tràn Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Hoàng Trừu..., cả trong văn học viết, thậm chí cả trong văn hoc hiện đại nữa bao mối tình Chí Phèo - Thị Nở, Nguyệt - Lãm, Mị - A Phủ..., dù ít dù nhiều, đều có dáng dấp của những mối kì duyên. Nghiên cứu hệ thống mô típ này sẽ hứa hẹn không ít những thú vị cả về quan niệm nhân sinh lẫn tư duy nghệ thuật. Nằm trong mạch ấy, Vợ nhặt của Kim Lân có những sắc thái rất riêng. Nói hôn nhân trong Vợ nhặt kì lạ ít nhất vì ba lẽ. Một là, sự đảo lộn về giá trị: Tràng - một gã trai nghèo khổ, thô kệch, lại là dân ngụ cư, lâu nay ế vợ,, bỗng dưng "nhặt" được vợ, mà lại là vợ theo không. Hai là, sự ngược đời: Tràng lấy vợ lúc không ai lại đi lấy vợ - giữa những ngày nạn đói đang lăm le cướp đi mạng sống của mỗi người. Ba là, nghịch lí: một đám cưới thiếu tất cả mà lại như đủ cả. Những điều này quyết định đến việc tổ chức mạch truyện và cả cấu tứ của thiên truyện nữa.
Không phải ngẫu nhiên mà mạch truyện là một chuỗi ngạc nhiên kế tiếp. Khi Tràng dẫn vợ về thì cả xóm ngụ cư ngạc nhiên. Thoạt tiên là lũ trẻ. "Lũ ranh" ấy bỗng nhiên mất hẳn đi một bạn chơi, khi có đứa chợt nhận ra quan hệ của họ là "chồng vợ hài". Còn đằng người lớn thi ngớ ra "không tin được dù đó là sự thật". Khi đã tỏ, họ tò mò thì ít mà ái ngại nhiều hơn: " Giời đất này còn rước cái của nợ đời về"! Tiếp đó là bà cụ Tứ. Tràng lấy được vợ là điều bà đều mong ngày tưởng, vậy mà khi sự xảy đến, bà hoàn toàn không tin nổi - không tin vào mắt mình (ngỡ mình trông gà hoá cuốc), không tin vào tai mình (quái, sao lại chào mình bằng "u”). Song, đáng nói nhất vẫn là Tràng. Là "thủ phạm" gây ra tất cả, mà vẫn không hết ngac nhiên (chẳng những cứ đứng "tẩy ngầy" giữa nhà tối hôm trước mà đến tận hôm sau, qua một đêm có vợ rồi mà "hắn cứ lơ lừng như người đi ra từ trong một giác mơ"). Trong chuỗi ngạc nhiên ấy, ta đọc thấy những định nghĩa xót xa về người vợ: Vợ là cái của nợ đời. Vợ là gánh nặng phải đèo bòng. Có thể nói, chưa có ở đâu giá trị của người vợ lại thấp kém, lại bèo bọt như hoàn cảnh này. Và cũng chưa bao giờ, hạnh phúc lại có một nghĩa lí đáng sợ như ở đây: hạnh phúc là một mạo hiếm, một nguy cơ. Như vậy, tạo được tình huống này, tác phẩm đã tố cáo được tội ác của phát xít Nhật, kẻ đã gây ra nạn đói khủng khiếp, không chỉ cướp đi sinh mệnh của mấy triệu người Việt Nam, mà còn đánh tụt giá người xuống hàng cỏ rác bọt bèo. Mặt khác cũng toát lên được niềm tin vào bản chất Người trong con người: dù hoàn cảnh muốn biến con Người thành Bèo Bọt, nhưng Con Người vẫn không chịu làm Bèo Bọt mà vẫn kiên nhẫn làm Người. Nghĩa là một tình huống giúp ta hiểu sâu tầm vóc nhân văn của tác phẩm.
Bởi vì đó là tình huống: đùa mà không đùa. Hôn nhân là một chuyện hệ trọng và thiêng liêng vào bậc nhất của đời sống nhân sinh, ấy thế mà ở đây, hoàn cảnh tai ác và cả con người nữa như muốn biến thành trò đùa - "Tràng chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai lần thế mà thành truyện. Nếu trước sau chỉ là một trò đùa, thì Con Người đã thành Bèo Bọt. May thay, các nhân vật đã bước ra khỏi trò đùa kia với tư cách Con người. Một diễn biến như thế, có thể thấy về bản chất là: Cảnh ngộ cứ lâm le Bèo Bọt hoá Con Người, nhưng con người đã vượt lên cả cảnh ngộ lẫn bàn thân mình, vẫn cứ làm người.
Nhìn từ phía cô "vợ nhặt", cái đói quay quắt ném cô vào một đời sống vất vưởng. Đời sống vất vưởng nghiệt ngã đã biến cô thành một kẻ chanh chua, chao chát, cong cớn, trơ tráo, chằng những làm biến dạng tính cách con người, nạn đói khủng khiếp còn như một cơn lủ lớn đã cuốn phăng đi bao sinh mệnh. Chới với giữa dòng lũ, tiếng nói thường trực nhất, tất nhiên, là tiếng nói của băn năng Cần phải sống đã, cần phải bám ngay vào tất cả những gì có thể bám được. Và bản năng ham sống đã xui khiến cô làm tất cả những giì để có thế thoát khỏi cái chết đang đe doạ từng giờ từng phút. Thật may mắn, cô đã bám vào được một cái cọc, thoạt đấu có vẻ ơ hờ không đâu, té ra lại vững vàng đáo để. Cái cọc ấy có tên là Tràng. Đầu đuôi, chưa phải là bám vào Tràng, hay bám vào cái xe bò, mà là bám vào một cái rất không đâu, rất mong manh vô hình, ấy là câu hò của Tràng. Để làm được kỳ công ấy cô đã biến một câu hò vu vơ giữa cho thành một lời hứa hẹn thật (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này. lại đây mà đẩy xe bò với anh nì"), quyết định nhất là, biến một lời rủ rê đùa thành một lời cầu hôn chính thức <"Làm đếch gì đã có vợ. Nói thế chứ muốn về với tớ thi sửa soạn các thứ rồi cùng về!). Có phải bản năng đã lấn át mất danh dự? Nếu quả thực chỉ có thế, thì có cũng chỉ là một thứ Bèo Bọt, không hơn không kém. Nhìn kĩ, bên trong chưa hẳn đẫ mất hết lòng tự trọng. Nếu hoàn toàn không còn ý thức ấy, hẳn ở cô không thể có những cung cách như khi nhìn thấy căn lều rách nát của mẹ con Tràng. "Thị nén một tiếng thở dài trong ngực", không thể ngổi mớm trên giường ôm khư khư cái thúng trong lòng, không thể đêm khuya cứ ngồi bán thân bất động trong khi Tràng đã sốt ruột leo lên giường định vào đém tân hôn. Nhất là cái cung cách ứng xử vào sáng hôm sau: không phải việc lao vào dọn dẹp cùng với mẹ chồng từ sáng sớm - việc ấy nghĩ cũng bình thường, mà là khi nhận bát "chè khoán" từ tay bà cụ Tứ, thị chợt "sầm mặt lại", sau đó "và ăn một cách điềm nhiên". Thái độ và cung cách như thế chỉ có thể có ở người có ý thức về cảnh ngộ mình cùng thân phận mình. Té ra, những chao chát, chỏng lòn, cong cớn kia chỉ là những du nhập từ bên ngoài vào, như một thứ vũ khí để tự vệ để đối phó với cảnh sống vất vưởng thôi. Bản tính sâu xa đến giờ mới hiện ra, mà có lẽ cuộc hôn nhân này mới làm hổi sinh thì phải! Như thế, nảy nở bởi một trò đùa, nhưng bên trong con người vốn dỉ là một cái mầm nghiêm túc luôn khát sống và khát làm Người. Ta mới hiểu được vì sao, cô tự rơi vào một hoàn cảnh rất dễ bị khinh rẻ, nhưng người đọc và cả người trong truyện không thấy khinh mà chỉ thấy thương, rồi thấy quí, dù lắm lúc thấy... buồn cười.
Nhỉn từ phía Tràng, tình huống này không hẳn là lưỡng lự giữa sự đùa cợt phất phơ và ý định nghiêm túc, mà ở chiều sâu, chính là sự phân vân giữa một bên là sự khước từ của lòng vị kỉ, một bên là sự cưu mang của lòng vị tha. Sau những gì đã" gây ra" bởi hàng loạt những trò đùa tầm phào, Tràng có "chọn", nghĩa là thoáng lo sợ và ân hận của kẻ đã trót đẩy trò đùa đi quá trớn. Nếu lúc ấy, Tràng bỏ của chạy lấy người, thì vể lí, chẳng ai trách được gã trai ấy Nhưng tình người trong gã thì chắc mất mát đi nhiều lắm. Và Tràng cũng chẳng hơn thứ Bèo Bọt là bao. Song, Tràng đã "Chặc, kệ!" Có vẻ như một quyết định không nghiêm túc, nhưng phóng lao phải theo lao vậy. Đến đây cả người đọc thừa thãi niềm tin nhất, cũng chưa thể tin là rồi ra có thế chắc chắn, dù ngẫm cho cùng, họ đến với nhau, bề ngoài thì ngẫu nhiên, không đâu, mà bên trong lại là tất nhiên: người này cần người kia để có một chỗ dựa mà qua thời đói kém, con người kia cũng cần đến người này để mà có vợ, để biết đến hạnh phúc làm người. (Nếu không "gặp cái nước nay, người ta mới lấy đến " Tràng, thì tình trạng ế vợ trường kì của gã trai đây còn khuya mới đến hồi kết. thúc!). Và cuối cùng, nằm ngoài mọi tưởng tượng và ngờ vực, hai que củi trôi dạt ấy đã chụm vào nhau, đã nhen nhóm lên thành bếp lửa. Sau cái tiếng "Chặc, kệ!" đó, mọi tầm phơ tầm phào đã khép lại, nhường chỗ hoàn toàn cho sự nghiêm trang. Hãy chú ý đến việc làm ngay sau đó của Tràng. Còn bao nhiêu tiền, Tràng dôồ vào ba việc: mua cho vợ một cái thúng, ăn với nhau một bừa cơm và mua một chai dầu. Hai việc đầu là thiết thực. Việc thứ ba xem chừng xa xỉ, cứ như một thứ chơi sang, chơi ngông. Hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, không có đèn thắp, có chết đâu! Nhưng chính cái việc ngỡ như xa xỉ kia lại nói với ta rất nhiều về tấm lòng của Tràng. Thì ra, không phải lấy dược vợ quá dễ dàng thỉ Tràng cũng rẻ rúng hạnh phúc của mình. Nếu rẻ rúng, Tràng cũng chỉ là Bèo Bọt. Trái lại, Tràng rất trân trọng. "Vợ mới vợ miếc thì cũng phải sáng sủa một chút chứ chả nhẽ chưa tối đã rúc ngay vào", Cách nói có cái vẻ bỗ bã của một gã trai quê, nhưng động cơ thỉ không thiếu cái nghiêm trang của một người giai tử tế tối tân hôn. Hôm nay phải là một ngày khác hẳn. Phài là một sự kiện của đời mình. Ngày mình có vơ, nhà cần phải sáng. Mua chai dấu chính là nỗ lực để đàng hoàng ở cái mức mình có thể có được vào lúc này. Kể từ khi ấy, họ gắn bó với nhau chân thành và nghiêm trang như bất cứ đôi lứa nào trên cõi đời này. Chỉ cần làm một so sánh nhỏ với chương "Hạnh phúc của một tang gia" trong Sổ đỏ của Vũ Trọng Phụng cũng có thể thấy ngay nghĩa lí sâu sa của nó. Đám tang cụ cố tổ cực kì long trọng to tát, thừa thãi mọi đồ lễ và nghi lễ hình thức. Chỉ thiếu duy nhất một thứ, ấy là lòng xót thương dành cho người quá cố. Mà thiếu điều này, mọi thứ khác chi còn là trò loè bịp rởm đời trống rỗng và vô nghĩa. Nó là hình ảnh của một xã hội đồi bại, cũng là niềm phẫn uất, là nỗi bi quan của Vũ Trọng Phụng về cái cuộc đời vô nghĩa lí chó đểu đó. Còn cuộc hôn nhân này lại thiếu tất cả, kể cả những nghi lễ tối thiểu nhất của một đám cưới. Thế nhưng, nó lại có cái quan trọng nhất, cốt lõi nhất: đó là sự thương yêu gắn bó thực lòng. Mà đã có đươc điều này, thì những cái thiếu kia đều không còn đáng kể, thậm chí đều trờ lên vô nghĩa. Nên đây là hình ảnh của Tình Người, của tư cách Người trong con người. Cuộc hôn nhân như thế chẳng phải là niềm tin mãnh liệt vào phẩm giá Người bất diệt của Kim Lân đó sao?
Từ một góc nhìn nào đó ta còn thấy tình huống này là đám cưới ở giữa đám ma. Thậm chí, đám cưới nhỏ nhoi giữa một đám ma khổng lổ. Là việc hai cá thể tự nguyện gắn bó với nhau, lập nên một gia đinh rồi sinh con đẻ cái, đám cưới được coi như sự kiện khởi đầu một sự sống mới trong nhân gian. Còn đám ma lại là sự kiện kết thúc một chu trình sống trên cõi đời này Tình huống "vợ nhặt", do đó, còn có thể gọi là sự sống nảy sinh giữa cái chết. Có thể Kim Lân chưa chắc đã ý thức thật đầy đủ về khía cạnh này. Nhưng ý nghĩa khách quan của tác phẩm thì toát lên điều đó. Không phải ngẫu nhiên mà trong thiên truyện, ta thấy nổi lên song hành hai cuộc giao tranh: Sự sống với cái chết và Ánh sáng với Bóng tối.
Cuộc hôn nhân hình thành một phần lớn là do Cái Chết đến đuổi. Khi dắt nhau về xóm ngụ cư, họ đi trong sự bao vây của cái chết. Cái chết hiện ra với nhiều bộ mặt, nhiều biến thể: khi thì trong hình ảnh xác những người chết đói nằm la liệt trên bãi chợ, khi thì ở bóng những người đói rật rờ như những bóng ma đằng sau gốc đa hay gốc gạo, khi lại hiện ra trong hình ảnh bày quạ bu kín trên ngọn cây, chỉ chờ những người đói đổ xuống ùa tới moi gan rỉa thịt, khi lại hiện trong hình ảnh khói của những nhà đốt đống rấm để xua mùi tử khí... Cái Chết truy đuổi rình rập quanh bước chân của họ. Thậm chí, khi đôi trai gái sắp lên giường ngủ, nó vẫn chưa chịu buông tha. Đúng lúc ấy, họ nghe thấy tiếng khóc hờ của những nhà mới có người chết tỉ tê lọc qua kẽ vách. Nhưng sự sống không bao giờ chán nàn. Sáng hôm sau, tất cả các thành viên trong gia đình ấy đã cùng lao vào một việc có thể nói là không thiết thực, bởi không có một hiệu quà kinh tế trực tiếp gì: dọn dẹp nhà cửa. Nhưng cái việc có vẻ chưa cấn thiết một ti nào ấy lại nói với ta rất nhiều về thái độ sống của họ. Họ không muốn tạm bợ, mà muốn đàng hoàng. Họ đang chuẩn bị cho cuộc sống lâu dài. Họ bướng bỉnh tuyên chiến với nạn đói. Ở người mẹ già nua sự sống ngỡ như đã khô cằn đi. lại như bừng lên một sức sống mới Bà xăm xắm lao vào công việc, hay cười, hay nói và toàn nói về tương lai. tương lai gần còn chưa hiện ra đã lại nghĩ đến nhưng tương lai xa hơn nữa ”Tràng à. lúc nào có tiền mua lấy đôi gà. Tao tính cái đám đất đầu bếp kia nếu làm chuồng gà thì rất tiện. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ cỏ ngay đàn gà cho mà xen”. Rõ ràng, sự sống khỏng đầu hàng cái chết. Sự sống đang kiên nhẫn vượt lên cái chết.
Nhưng, tinh vi nhất vẫn là cuộc giao tranh thứ hai: Ánh sáng với Bóng tối. Phần thắng cuối cùng thuộc vể Ánh sáng. Điều này hiện rõ ngay trong kết câu. Có ngẫu nhiên không khí câu chuyện mở ra lúc trơi nhá nhem tói và kết thúc vào sáng hôm sau, khi mặt trời lên cao bằng con sào? Và hệ thống tình tiết dọc theo mạch truyện cũng không hẳn là ngẫu nhiên. Trước khi đôi trai gái dắt nhau về, bao chum lên xóm ngụ cư là một bầu không khí âm u, ảm đạm bởi từ khí vây quanh cùng bao ánh mắt lo âu. Nhưng họ về đến đâu ánh sáng theo về đến đó. Thoạt tiên là có một cái gì tươi mát thổi vào đám người ngụ cư làm cho gương mặt hồc hác u tối của họ bỗng rạng sáng lên. Rổi đêm ấy căn lều lâu nay bóng tối vẫn ngự trị của mẹ con bà cụ Tứ cùng sáng lên - bằng ngọn đèn từ chai dầu của Tràng? Không, sâu xa hơn, là bằng nguồn sống bùng lên từ cuộc hồn nhân ấy. Sáng hôm sau, gương mặt lâu nay u ám bủng beo của bà cụ Tứ cũng sáng lên Cảnh vật bao quanh căn lều cũng sáng sủa quang đãng... Tuy nhiên, chai dầu của Tràng giỏi lắm cùng chỉ xua đi được Bóng tối trong căn lều nhỏ bé ấy thôi. Còn Bóng tối bao trùm lên toàn bộ thế giới của câu chuyện thì ngọn đèn dầu kia không xua tan nổi. Nó phài nhờ vào một nguồn sáng khác lớn lao hơn, mãnh liệt hơn Đó là nguón sáng của lá cờ. Câu chuyện được khép lại bằng hỉnh ảnh lá cờ đỏ sao vàng rực rỡ hiện lên trong tâm trí của Tràng nằm vào mạch ngầm tất yếu đó. Một kết thúc bằng Ánh sáng. Một kết thúc lạc quan.
Thế là, nảy sinh trên một mảnh đất mà Cái chết đang lan tràn, nhưng sự sống quyết không chán nản. Sự sống vẫn cố bám ghì lấy mặt đất, vẫn kiên nhẫn vươn ra Ấnh sáng, vươn lên phía trước. Sự sống bao giờ cũng mạnh hơn cái chết. Đó chính là bản tính tích cực của sự sống. Điều ấy chẳng phải là dư vị triết lí của Vợ nhặt, chỗ sâu sa nhất trong ý nghĩa nhân văn của tác phẩm này sao? Gọi Vợ nhặt là Bài ca sự sống, thiết tưởng cũng khỏng phải là đề cao quá đáng.