Thơ Tố Hữu không phải không có những yếu tố cách tân nhưng trong hai hướng lớn của thơ tiên phong cách tân và tìm về truyền thống, thì thơ Tố Hữu nghiêng về hướng thứ hai. Vì thế bước vào thế giới Tố Hữu, người ta thấy quen nhiều hơn lạ. Người ta thấy thơ Tố Hữu gần gũi với cổ điển, với dân gian. Đó cũng chính là một yếu tố làm nên sức mạnh của thơ Tố Hữu
Bản sắc dân tộc là một vấn đề vô cùng phức tạp. Người ta không thế khẳng định chắc chắn rằng tính cách này là của riêng dân tộc này. phẩm chất kia là độc quyền của một dân tộc khác Không phải sản phẩm sinh ra ở dân tộc nào thi nó chỉ kết tinh bản sắc của dân tộc ấy. Lắm khi bản sắc là sự phù hợp, ưa dùng. Có lẽ nhiều nước có đàn bầu, và Việt Nam thì chưa chắc đã là quê hương của đàn bầu, nhưng rõ ràng đàn bầu là thứ nhạc cụ thể hiện được những rung động rất sâu sắc của con người Việt Nam, âm sắc đàn bầu như thuộc về điệu hồn người Việt. Cũng như thế, hiện nay ở Đông Nam Á, người ta thấy nhiều nước có thơ lục bát. Tuy nhiên, lục bát là thể thơ được người Việt Nam ưa dùng, họ thấy lục bát gần gũi với tâm hồn mình. Nó biểu hiện một cách thuận tiện, phù hợp với điệu hồn chung của cộng đồng người Việt. Vì thế, khi một nhà thơ dùng thể lục bát, tự khắc người ta thấy gần gũi - lục bát sẽ rung lên cái sợi tơ lòng chung của những tấm lòng Việt. Tố Hữu tìm về lục bát khá sớm Trước khi viết Việt Bắc, ông đã có nhiều thành tựu về lục bát. Nhưng có lẽ "Việt Bắc" là bài thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu, trong đó âm điệu lục bát đà nhuần nhuyễn, tinh diệu, đến mức mẫu mực:
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi đề rụng măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương.
Những câu thơ lục bát ấy có thế xếp bên cạnh những câu ca dao dân gian, những câu lục bát cổ điển hay nhất của ta. Tiếng Việt trong những câu ấy thật bình dị mà đằm thắm, thật trong trẻo mà sâu lắng bởi thơ quện thật chặt với những tiết tấu co duỗi mềm mại. rát lên như những nốt nhạc, những giai điêu bằng ngôn từ
Nhưng nói đến "Việt Bắc" có lẽ cái gây ấn tượng đậm nhất trong người đọc là cái cấu trúc độc đáo của nó. Tố Hữu đã tái hiện một bức tranh hoành tráng trải ra trong một thời gian dài tới mười lăm năm (Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh) bao quát một không gian rộng, bao quát toàn bộ Việt Bắc (Từ "Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào" đến "Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà"). Bài thơ muốn có xu hướng trở thành diễn ca lịch sử (kiểu như "Ba mươi năm đờỉ ta cỏ Đảng" sau này!) Nhưng sở dĩ nó không là diễn ca hẳn, bởi vì thi sĩ đã tìm đến một kết cấu truyền thống của lối Hát giao duyên. Cả bài thơ dài như một cuộc hát đối đáp nam nữ. Tựa như những khúc trữ tình trong "Giã bạn" hay "Tiễn dặn người yêu". Cả bài thơ dài chủ yếu là lời của hai nhân vật. Người ở lại rừng núi chiến khu là cô gái Việt Bắc, người về xuôi là anh cán bộ cách mạng. Tựa như liền chị - liền anh" trong hát Quan họ. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đáng và Chính phủ kháng chiến với Việt Bắc được thu vào cuộc chia tay của một đôi trai gái. Nói khác hơn, tác giả đã chọn tình yêu của đôi trai gái làm một góc nhìn để bao quát toàn cảnh Việt Bắc, với "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Chuyện chung đã hoá thành chuyện riêng, chuyện cách mạng của dân tộc Đất nước trở thành chuyện tình yêu của lứa đôi.
Một sự kiện chính trị đã chuyển hoá thành thơ ca theo cách Tâm tình hoá chính là một đặc trưng của lối thơ trữ tình - chính trị của Tố Hữu. Việc "dời đô" (Việt Bắc là thủ đô kháng chiến – Tố Hữu gọi là "Thủ đô gió ngàn") đã thành câu chuyện ân tình chung thuỷ của người cách mạng với rừng núi chiến khu, với đồng bào, với quá khứ, với chính mình... Đôi trai gái xưng hô theo lối rất dân gian: Ta – mình. Mối băn khoản lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay giã bạn là ân tình - chung thuỷ:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng?
Phố cao còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng
"Mình về mình có nhở ta" đã là chuyện chung thuỷ! Nhưng "Minh đi mình cỏ nhớ mình" thì ân tình thuỷ chung đã đươe đẩy tới một mức thật sâu. Mình đi khỏi Việt Bắc là đi khỏi thời gian khổ, nơi gian khổ. có thể mình quên ta. phu ta Nhưng mình có nhớ chính mình chăng, Có phụ chính mình được chăng? Bởi quên ta cững là quên chính mình đó. Những câu hỏi thâm thúy ân tình như vậy đã giúp Tố Hữu dân gian hóa, truyền thống hoá một vấn đề của cách mạng, vần đề của hôm nay. Người con trai cững trả lời, cũng ghi lòng tạc dạ với một tinh thần như thế:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Nhà cao chẳng khuất non xanh
Phố đông càng giục chân nhanh bước đường
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Kết cấu đối đáp hoà với lời thơ lục bát giàu chất dân gian như thể đã làm cho bài Việt Bắc của Tố Hữu cò cái dáng dấp của một bài hát giao duyên bác học được viết theo lối dân gian. Nó làm cho bài thơ gàn gũi với tâm hồn quần chúng và dễ dàng gia nhập vào mạch Văn hoá dân gian, trở thành những bài hát ru. Thậm chí có thể trình bày bài thơ theo lối diễn xướng dân gian rất phù hợp.
Có lẽ cũng cẩn phải nói thêm về phong vị cổ điển của nó. Đây là một nét truyền thống khác của thơ Tố Hữu. Trong bài "Kính gửi cụ Nguyễn Du", chúng ta thấy không khí lục bát thật trang trọng. Thi sĩ đã dùng những thi liệu của "Truyện Kiều" để tâm tình với tác giả "Truyện Kiều". Ông cũng dùng hình thức lẩy Kiều, tập Kiều để làm cho bài thơ có phong vị cổ điển. Còn ở đây không thế. Chúng ta đã thấy kết cấu trữ tình của bài thơ, giọng điệu tứ bình của bài thơ có phần nghiêng về dân gian. Còn bút pháp tạo hình nhiều chỗ nghiêng hẳn về cổ điển. Câu lục bát ở những chỗ ấy thường chặt chứ không lỏng, chữ "đúc” nhiều, chữ "nước” ít. Hỉnh thức tiểu đối được sử dụng rất dầy và biến hoá nhịp nhàng. Nhưng có lẽ đáng nói hơn vẫn là lối vẽ thiên nhiên trong các câu lục bát ấy. Nói riêng đoạn "Hoa cùng người", có thể thấy ngay, thi sĩ tạo hình theo lối xây dưng bộ tranh trừ tình - một hình thức rất phổ biến của nghệ thuật cổ điển Hoa và người Việt Bắc cứ đồng hiện, mỗi dáng người là một dáng hoa. Hoa và người soi chiếu nhau, tôn vinh lẫn nhau. Bốn bức tranh dường như đã tái hiện trọn vẹn đầy đủ về nhịp văn hành luân chuyển của thiên nhiên và con người Việt Bắc:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiêng hát ân tình thuỷ chung
Còn có thể phân tích bài thơ ở những phương diện khác như các thủ pháp nghệ thuật, lối sử dụng ngôn ngữ gần gũi với quần chúng, phát huy được vẻ đẹp riêng của tiếng Việt... Nhưng có lẽ chỉ cần điểm qua một vài nét chính ấy cũng đủ thấy nghệ thuật "Việt Bắc" nghiêng về truyền thống như thế nào. Tố Hữu đã đi trên con đường ấy bền bỉ suốt từ khi bắt đầu cầm bút cho đến tận bây giờ để khẳng định một phong cách thơ độc đáo của riêng mình.