Nguyễn Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay (Nguyên Ngọc). Sự tinh anh và tài năng ấy trước hết thể hiện ở quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật. Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hi sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với kẻ thù, với đồng chí, cách mạng. Sau năm 1975, văn chương trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác năm 1983 là truyện ngắn rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Đây là tác phẩm in đậm phong cách của Nguyễn Minh Châu: tự sự - triết lí nhân sinh. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây hình thành công hình tượng người đàn bà với số phận bất hạnh nhưng vẫn mang nhiều nét đẹp của người mẹ.
Đọc truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, một trong những nhân vật để lại ấn tượng khó quên cho độc giả là nhân vật người đàn bà hàng chài. Tác giả chỉ gọi là người đàn bà một cách phiếm định bởi có lẽ tác giả muốn nói đến vô vàn người phụ nữ hàng chài khác trên khắp đất nước cũng có số phận như bà ? Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Ngoại hình của người đàn bà ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, quanh năm phải chống chọi với cái nghèo, cái đói và với thiên tai khắc nghiệt. Tuy bà không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác nhưng số phận con người ấy được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. Bà thường xuyên bị người chồng hành hạ, đánh đập thật khốn khổ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng vậy mà bà vẫn nhất quyết gắn với bó lão đàn ông ấy: Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó. Hơn nữa, bà còn âm thầm lặng lẽ chịu đựng mọi đớn đau, khi bị chồng đánh bà không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn. Bởi bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản là trong cuộc sống đầy cam go trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề để nuôi những đứa con lớn lên. Như vậy, nguồn gốc của mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ với những đứa con: đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn Ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn đặng một sắp nhà nào cũng trên dưới chục đứa [...] Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được. Thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài khiến người đọc phải kinh ngạc đến bất bình. Nhưng ở trong hoàn cảnh đông con và cuộc sống lênh đênh trên mặt nước lại đầy những nhọc nhằn, bất trắc cùng nỗi lo cơm áo hàng ngày, thì chỉ có người đàn bà này mới hiểu được. Con đường duy nhất là bà lựa chọn là sự cam chịu, nhẫn nhục để bảo vệ cuộc sống gia đình bình yên. Người đàn bà luôn có một mong muốn là sau này con cái tôi lớn lên, tôi mới xin được với lão ... đưa tôi lên bờ mà đánh vì bà luôn lo sợ sự hành hạ của chồng với mình sẽ làm các con bị tổn thương. Mặc dù hết sức che chắn như vậy nhưng những đứa con vẫn biết được sự thực đau lòng ấy. Lúc đó, bà cảm thấy nhục nhã và xấu hổ vô cùng. Bà ôm lấy thằng Phác rồi lại buông ra chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy. Hành động này của bà cho thấy bà đã vô cùng đau đớn và xót xa. Bà đã không sao tránh được cho con khỏi bị tổn thương do bạo lực gia đình. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam đảm đang, nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha, đức hi sinh.
Tuy người đàn bà có số phận bất hạnh nhưng trong bà vẫn tồn tại những nét đẹp của người mẹ trong những hình huống éo le, bi kịch nhất. Trong đau khổ triền miên như vậy nhưng người đàn bà vẫn biết trân trọng, chắt chiu được những hạnh phúc dù là nhỏ nhoi nhất: cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuẫn, vui vẻ [...] vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no. Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi này giống như một liều thuốc an thần để giúp cho người đàn bà vượt qua mọi gian khổ, vất vả và những đau đớn về mặt thể xác lẫn tinh thần. Không những vậy, bà còn là một người giàu lòng vị tha, rộng lượng và thấu hiểu lẽ đời. Như lời bà nói, người đàn ông là chồng bà trước kia cục tính nhưng hiền lành và không bao giờ đánh đập bà. Theo bà, sự độc ác của người chồng là cả một quá trình tha hóa nhân cách: Giá tôi đẻ ít hơn, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối; Cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính [...] nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật. Bà hiểu đây chính là nguyên nhân khách quan dẫn đến sự tha hóa của người chồng. Tất cả những gánh nặng gia đình đã đè nặng lên vai của người chồng và người chồng đã không thể chịu đựng được, lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh. Mỗi khi tức quá, ông ta tìm nơi giải tỏa và trút bỏ sự bế tắc thì không đâu khác đó chính là bà vợ: lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà. Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao trước kia là chỉ để thỏa mãn lòng ích kỉ thì chúng đã tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác. Lão đàn ông mái tóc tổ quạ, hai con mắt đầy vẻ độc dữ vừa là nạn nhân của cuộc sống khôn khổ vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, phần người trong những kẻ thô bạo ấy ? Thế ra, đó chẳng phải là người đàn bà xấu xí, dở hơi để bị người chồng đánh đập, hành hạ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng mà bà là người thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của bà mang triết lí của con người từng trải, bà chấp nhận chịu mọi thiệt thòi về mình để cho những đứa con tội nghiệp khỏi bị tổn thương và chúng có đầy đủ cả cha lẫn mẹ.
Tại tòa án huyện, người đàn bà đã trình bày sự thật về cuộc sống của gia đình, những suy nghĩ và sự chịu đựng của bà khiến Phùng và Đẩu phải ngạc nhiên, cảm thông và cảm phục. Trước chánh án Đẩu, lúc đầu bà còn sợ sệt, lúng túng đến tội nghiệp nhưng sau khi được chánh án khuyên li hôn thì thái độ của bà đột nhiên thay đổi. Bà chủ động trình bày ý kiến của mình: Chị cám ơn các chú [...] Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn ... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc [...] các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông. Thế có nghĩa, người đàn bà đã gián tiếp nói với Phùng và Đẩu: cuộc sông vất vả, khó nhọc, những người đàn bà làng chài như chúng tôi rất cần một người đàn ông. Những lời của người đàn bà đã làm cho Đẩu - một vị Bao Công phố huyện vùng biển - thấy mình như vỡ ra những nghịch lí của cuộc sống: không thể nhìn cuộc đời từ bề ngoài mà phải nhìn từ bản chất bên trong của nó. Muốn con người thoát khỏi cảnh đau khổ, tăm tối, man rợ thì cần phải có những giải pháp thiết thực chứ không phải là những thiện chí hoặc lí thuyết sách vở. Còn với Phùng, từ câu chuyện của người đàn bà, anh cũng nhận ra giá trị của con người và đời sống, nghệ thuật và đời sống: cái đạo đức không phải nằm trong cái đẹp của nghệ thuật mà ở trong tấm lòng, đức hi sinh cao cả của con người.
Nhân vật người đàn bà làng chài đã đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện cách nhìn đa diện, nhiều chiều của Nguyễn Minh Châu. Bà là một người nhân hậu, bao dung, rất yêu thương con, giàu lòng vị tha và đức hi sinh. Quan trọng hơn là bà rất thấu hiểu lẽ đời. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản là yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu đáo, sáng suốt thì thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của đời sống. Điều này đã được Nguyễn Minh Châu nói rõ: Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần *'phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử.