Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) sinh tại Phú Thọ, quê gốc ở Đà Nẵng. Ông là một trong những nhà viết kịch xuất sắc nhất của nước ta sau năm 1975. Kịch của ông phản ánh nhiều vấn đề nóng bỏng của đời sống, đóng góp thiết thực vào công cuộc đổi mới của đất nước và góp phần đem đến cho sân khấu Việt Nam đương đại một sức sống mới. Những vở kịch của ông hấp dẫn chủ yếu không phải bằng xung đột gay gắt mà bằng xung đột trong cách sống và quan niệm sống, qua đó khẳng định khát vọng hoàn thiện nhân cách sống, hoàn thiện con người. Trong hơn 50 kịch bản đã được đàn dựng, một số đã được in thành sách thì vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã gây tiếng vang hơn cả. Tác phẩm được viết từ năm 1981 đến năm 1984 mới ra mắt công chúng và đã được biểu diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian quen thuộc, tác giả đã xây dựng được một vở kịch dài, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc. Đoạn trích trong Sách giáo khoa là cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, khi mâu thuẫn đã được đẩy lên cao trào để giải quyết, ở phần cuối này, hồn Trương Ba đã bị những người thân chê trách xa lánh, tự ý thức được sự tha hóa của mình, bị thân xác anh hàng thịt sỉ nhục,... Tất cả những cái đó làm cho hồn Trương Ba vốn cao khiết không thể chịu đựng được nữa để rồi cuối cùng ông quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết vĩnh viễn. Trương Ba chết do sự tắc trách của Nam Tào nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn. Xác hàng thịt tỏ ra lấn lướt hồn Trương Ba, sỉ nhục hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba thấy đau khổ đến cực độ và thấy không thể chịu dựng được hơn nữa. Xác hàng thịt muốn khẳng định, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình: Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, người thân... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thể giới này qua những giác quan của tôi... Còn hồn Trương Ba lại phủ nhận vai trò của thể xác mà khẳng định sự thanh sạch của tâm hồn khác xa với những thú tục thấp hèn khác: Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc [...] Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt; Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn... Lí lẽ của đôi bên đưa ra có những điểm đúng đắn khó bề bác bỏ khiến việc thắng bại không thể nào giải quyết được một cách nhanh chóng, đơn giản. Đây thực ra là một ẩn dụ, xác anh hàng thịt ẩn dụ về thể xác con người, còn hồn Trương Ba ẩn dụ về linh hồn của con người. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống ẩn dụ có sức lôi cuốn, gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc: con người không thể sống không là mình, không thể sống giả dối hay vay mượn cuộc sôống của người khác. Con người không chỉ sống bằng thể xác và còn phải sống bằng linh hồn, tình cảm,... Do phải sống nhờ thể xác của anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của thể xác. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần bị nhiễm những thứ tầm thường của xác anh hàng thịt. Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích nên đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp với mình vì theo xác hàng thịt thì chằng còn cách nào khác, cả hai đã hòa vào nhau làm một rồi.
Những lí lẽ của xác hàng thịt mà hồn Trương Ba cho là thật ti tiện, trớ trêu thay, hồn Trương Ba lại đang gặp và đang lâm vào. Điều này thể hiện qua thái độ của những người thân của Trương Ba. Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà, đi đâu cũng được [...] Còn hơn là thế này. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận: Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa. Cái Gái - cháu nội ông thì giờ đây đã không cần phải giữa ý. Nó một mực không nhận ông: Tôi không phải là cháu ông và ông nội tôi chết rồi. Trước đây, cái Gái yêu quý ông biết bao nhiêu thì giờ đây nó không thế chấp nhận cái con người có bàn tay giết lợn, bàn chân to bè như cái xẻng đã làm gãy tiệt cái chồi non và giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm trong mảnh vườn của ông nội nó. Với nó, ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi ! Lão đồ tể, cút đì ! Còn chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình như Sắp tan hoang ra cả khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy.., mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa... Tất cả những người thân yêu của Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ, cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất là ngày đau khổ nhưng cũng không khổ bằng bây giờ. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần, muốn đứt tung, muốn dâng trào. Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ đó, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình Trương Ba với lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ [...] Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần! Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát sau này.
Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ cương quyết, từ chối chấp nhận cảnh sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Trương Ba nhận thức rất rõ về cuộc sống hiện tại của chính mình: Ông tưởng tôi ham sống lắm hay sao ? Nhưng sống thế này, còn khổ hơn là chết. Mà không phải chỉ là một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi! Còn lấy lí lẽ gì khuyên thằng con tôi đi vào con đường ngay thẳng được ? Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai ? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn khiếp là lợi lộc. Qua lời thoại này, ta thấy lối sống của Trương Ba vốn rất cao khiết và biết giữ nhân cách, sống là phải vì những người xung quanh,-không a dua theo những thứ giả tạo, lợi lộc nên ông không thể chịu đựng được hơn nữa, không thể khuất phục trước thể xác, trước những cái xấu xa và tự đánh mất mình. Trước lời thuyết phục của Đế Thích nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối: ở đâu cũng được, chứ không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi sẽ... tôi sẽ... nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất. Từ đây, Trương Ba đi tới một quyết định sáng suốt, đúng đắn, dũng cảm và rất đạo đức khi quyết định sẽ trả lại thân xác cho anh hàng thịt còn mình chấp nhận cái chết để hình ảnh Trương Ba được sống trong mọi người mãi mãi như bản chất vốn có của Trương Ba: Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Trương Ba là một con người giàu tình thương yêu và nhân ái khi đứng trước cuộc thử thách cuối cùng, lúc đối mặt với cái chết, trước sự lựa chọn nhập vào xác cu Tị - một em bé hàng xóm vừa chết. Hồn Trương Ba rất thương cu Tị, đó là một đứa bé ngoan, bạn thân của cái Gái, cháu nội yêu quý của ông. Đầu tiên, Trương Ba nhận thức sâu sắc rằng không thể hòa nhập giữa xác của một em bé mới mười tuổi với một ông già gần sáu mươi tuổi: Nhập vào cu Tị... Tôi, một ông già gần 60, cu Tị thì chưa bắt đầu cuộc đời, còn đang tuổi ăn, tuổi lớn, chạy nhảy vô tư,... có ổn không nhỉ ? Rồi Trương Ba nghĩ về người thân và những người hàng xóm cũng gặp nhiều rắc rối: Tôi không phải là con chị, chị ấy sẽ không nguôi thương nhớ con... Có khi tôi còn phải sang nhà chị Lụa ở... Rồi còn hàng xóm, lí trưởng, trương tuần... Bao nhiêu sự rắc rối. Bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngợi, xử sự thế nào khi chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé lên 10 ? Làm trẻ con không phải dễ! Mà cái Gái nhà tôi, nó sẽ nghĩ thế nào nhỉ ? Tiếp theo, hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn mình lại nhập vào xác cu Tị để sóng và thấy rõ bao nhiêu rắc rối xảy ra: Chẳng bao lâu nữa, bà nhà tôi, bạn bè cùng lứa với tôi như bác Trưởng Hoạt lần lượt nằm xuống, mình tôi vẫn phải sống suốt bao năm tháng dài dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh. Những gì chúng thích thì thôi ghét, những gì tôi thích thì chúng chẳng ưa. Tôi sẽ như ông khách ngồi dai ở nhà người ta, mọi khách khứa đã về cả rồi, mình vẫn dầm dề nán lại. Tôi sẽ bơ vơ, lạc lõng hoặc sẽ trở nên thảm hại đáng ghét như kẻ tham lam, một kẻ lí ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ trẻ khỏe, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời! Vô lí lấm! Không! Và chính tình cảm thương yêu với một em bé chưa bắt đầu cuộc đời và sự cảm thông sâu sắc với một bà mẹ mất con nên Trương Ba đã cầu xin Đế Thích cho cu Tị được sống lại: Tôi không thể cướp cái thân thể mon nớt của cu Tị. Tiếng chị Lụa gào khóc nghe đứt ruột! Mất đứa con, chị ấy làm sao sống được? [...] Ông hãy đưa hồn cu Tị về nhập lại vào xác nó, cho nó được sống lại [...] Ông hãy cứu nó! Ông phải cứu nó! [...] Ông giúp tôi lần cuối. Tôi sẽ không hao giờ làm phiền ông nữa, không đòi ông điều gì nữa! Sau khi nghe những lời thống thiết của Trương Ba thì Đế Thích đã vì lòng quý mến ông, tôi sẽ làm cu Tị sống lại, dù có bị phạt nặng. Hành động này thể hiện rõ nét nhất quan niệm sống của Trương Ba, đồng thời cũng khẳng định nhân cách cao thượng của ông và tư tưởng nhân văn cao cả của tác phẩm. Khi Trương Ba đã lựa chọn đúng đắn là trả lại thân xác cho anh hàng thịt và mình sẽ chấp nhận cái chết vĩnh viễn thì Trương Ba lại trở về với con người trước kia: Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa. Qua chi tiết này, tác giả như muốn gửi gắm tới người đọc một thông điệp đó là nếu không được sống và hành động đúng là mình thì con người sẽ bị rơi vào bi kịch, sẽ phải đau khổ, dằn vặt và đó chính là điều đau khổ nhất của một con người. Trương Ba ra đi với mong ước mọi người sẽ nhớ tới mình đúng như Trương Ba của ngày xưa, với niềm tin sự sống vẫn tiếp tục và những điều tốt đẹp sẽ nảy mầm, sinh sôi, đâm hoa kết trái trên cõi đời này. Và đúng là Trương Ba đã ra đi nhưng cái chết ấy lại là bắt đầu của sự bất tử hình ảnh Trương Ba, lẽ sống cao đẹp của Trương Ba: Tôi đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà rẫy cỏ... Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu... Đoạn kết đầy chất thơ và có dư ba với hình ảnh của sự sống vẫn nảy nở và sự bất tử của linh hồn trong sự sống, trong lòng người. Hành động chấp nhận cái chết, trả lại xác cho anh hàng thịt của hồn Trương Ba là một hành động đúng đắn, dũng cảm và đạo đức. Từ tư tưởng triết lí về quan hệ giữa thể xác và linh hồn của truyện cổ dân gian, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm đúng đắn về cách sống: hãy sống chân thật là mình, không giả dối hay vay mượn kiểu sống của ai, hãy sống vì mọi người, vì hạnh phúc tôt đẹp của con người. Trương Ba chết nhưng hồn Trương Ba vẫn sống, sống trong tình cảm của mọi người, sống trong sự sống mà không cần mượn đến thân xác của người khác.
Ở phần cuối của vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, người đọc nhận thấy hành động của nhân vật Trương Ba hết sức phù hợp với hoàn cảnh trớ trêu mà ông ta đang lâm vào một cách bi kịch. Lời nói của Trương Ba vói những độc thoại nội tâm rất phù hợp với tính cách của nhân vật khi đã bị nhiễm những thói hư tật xấu sau một thời gian trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, đồng thời nó góp phần thúc đẩy bước phát triển của xung đột kịch đến chỗ cần giải quyết.