Đây là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ "Tự tình " ba bài được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật thể hiện một tâm trạng buồn cồ đơn của người đàn bà phận hẩm duyên ôi đang thao thức giữa đêm khuya.
Mở đầu bài thơ, hai câu đề gợi ra một không gian bao la, mờ mịt từ bom thuyền ở nơi dòng sông đến khắp mọi chòm xóm, thôn làng. Người phụ nữ thao thức suốt những canh dai. Tiếng gà gáy "văng vẳng" trên bom thuyền từ xa đưa tới. Đêm dài chuyển canh, mịt mùng vắng lặng mới nghe thấy tiếng gà gáy "văng vắng" như thế. Nghệ thuật lấy động (tiếng gà gáy) để diễn tá cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi làng quê đã góp phần làm nổi bật tâm trạng “oán hận" của người phụ nữ thao thức suốt những canh trường. Nàng ngồi dậy, lắng tai nghe tiếng gà gáy sang canh, rồi “trông ra" màn đêm mịt mùng. Màn đêm như bủa vây người phụ nữ trong nỗi buồn cô đơn, oán hận:
"Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm
Hai câu ba, bốn trong phần thực, tác giả tạo ra hai hình ảnh "mõ thảm" và “chuông sầu" đối nhau, hô ứng nhau, cực tả nỗi đau khổ, sầu tủi của riêng người phụ nữ đang sống trong cảnh ngộ quá lứa lỡ thì, trắc trở trong tình duyên. Vần thơ đầy ám ảnh. Phủ định để khẳng định tiếng “cốc" của "mõ thảm", tiếng "om" của "chuông sầu". Nữ sĩ đã và đang trải qua những đem dài thao thức và cô đơn, đau cho nỗi đau của đời mình cố đơn như "mõ thảm", chẳng ai khua "mà cũng cốc ", tủi cho nỗi tủi của riêng mình lẻ bóng chăn đơn như "chuông sầu" chẳng đánh "cớ sao om". Nỗi oán hận, đau buồn sầu tủi như thẩm vào đáy dạ, tê tái xót xa, như đang tỏa rộng trong không gian "khắp mọi chòm", như kéo dài theo thời gian cứa nhừng đêm dài. "Om" là tiếng tượng thanh, tiếng chuông sầu, cũng là gợi tả nỗi thảm sầu tê tái, đau đớn đến cực độ. Câu hỏi tu từ đã làm cho giọng thơ thắm thiết, xoáy sâu vào lòng người như một lời than, như một tiếng thơ dài tự thương mình trong nỗi buồn ngao ngán:
"Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om? "
Có biết thời con gái, Hồ Xuân Hương đã có những vần thơ tươi xinh, phơi phới như "Thân em vừa trắng lại vừa tròn" {Bánh trôi nước), "Hai hàng chân ngọc duỗi song song" (Đánh du),... ta mới thấy hết nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn của nữ sĩ được diễn tả tê tái trong hai câu ở phần thực này.
Lời than tự tình trong cồ đơn được khơi sâu trong phần luận, để mà "rầu rĩ” thêm, giận hờn thêm cho duyên phận hẩm hiu:
"Trước nghe” đối với "sau giận”', "tiếng" hô ứng với "duyên": "rầu rĩ' là tâm trạng đối với "mõm mỏm” là trạng thái. "Trước nghe những tiếng...", là những tiếng gì? - Tiếng của miệng thế? Hay tiếng gà văng vẳng gáy, tiếng "chuông sầu", tiếng "mõ thảm” đang "cấc”, đang "om” trong lòng minh? Giữa canh khuya thao thức, càng nghe càng thêm "rầu rĩ”, buồn tủi. Giữa lúc tàn canh thao thức, càng nghe càng "giận”, càng hờn về tình duyên bẽ bàng. Tình duyên của mình được ví với trái cây, không còn "má hây hây gió” (Xuân Diệu) nữa mà đã chín "mõm mòm", nghĩa
là quá chín, đã nẫu đi! "Duyên mõm mòm" là duyên phận hẩm hiuquá lứa lỡ thì! Trong câu thơ như có dòng lệ, có tiếng thở dài, vừa than thân trách phận, vừa buồn tủi về con đường tình duyên. Tiếng thư tự tình của Hồ Xuân Hương là lời than tự thương mình, đồng thời thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ đã luống tuổi mà vẫn cô đơn lẻ bóng: "Giật mình mình lại thương mình xót xa' (Truyện Kiều).
Phần kết xuất hiện một tứ thơ rất lạ. Như một sự thách đố với số phận, với duyên số. Nữ sĩ vẫn "bướng bỉnh" trước bi kịch cò đơn của mình khi "duyên để mõm mòm" rồi:
"Tài tử văn nhân ai đó ta?
Thân này đâu đã chịu già tom! ".
Vừa nghi vấn, vừa cảm thán, hai câu kết đầy nghịch lí. Nữ sĩ như vẫn còn tin vào tài năng của mình có thể làm xoay chuyển được duyên phận, vẫn hi vọng tìm được bạn đời trăm năm trong đám tài tử văn nhân. Câu sáu nữ sĩ viết: "Sau giận vì duyên để mõm mòm", câu tám bà lại viết: "Thân này đâu đã chịu già tom!". “Già tom" nghĩa là rất già, già hẳn! Đó là một cách “nói cứng“ thể hiện một thái độ “bướng bỉnh“, một bản lĩnh cứng cỏi trước ngang trái cuộc đời. Đọc chùm thơ "Tự tình" cũng như tìm hiểu cuộc đời của nữ sĩ, về mặt tình duyên; ta thấy hạnh phúc tình yêu chưa một lần mỉm cười với Xuân Hương. Bài thơ "Cám cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyên Hầu" (Nhớ người cũ, viết gửi Cẩn chánh học sĩ Nguvễn Du - tước hầu) như một bóng quang âm soi tỏ một "mảnh tình riêng" của "Bà chúa thơ Nôm", giúp ta cảm nhận bài thơ "Tự tình" này:
"Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đây gởi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trôm mừng duyên tấp nập,
Phấn son cùng túủi phận long dong.
Biết còn mấy chút sương sin mấy,
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong ".
Bài thơ "Tự tình" I được nữ sĩ gieo vần "om", năm vần thơ, vần nào cũng hóc hiểm, tài tình: "bom-chồm-om-mồn-tom". Những vần thơ hóc hiểm ấy, một mặt thể hiện bút pháp điêu luyện, mặt khác đã tạo nên nhạc điệu, âm điệu như thắt, như nén lại cái "oán'\ cái "hận", cái "ngang bướng" của một tâm trạng; một cá tính rất Xuân Hương.
Duyên số và hạnh phúc tình yêu của người phụ nữ là nội dung đầy ám ánh đối với mỗi chúng ta khi đọc bài thơ "Tự tình" này của Xuân Hương. "Tự tình" là tiếng than thân trách phận cho nỗi buồn cô đơn, cho bi kịch tình yêu, là niềm khao khát được sống trong hạnh phúc, được làm vợ, làm mẹ trong cuộc đời của người phụ nữ. Vì lõ đó, "Tự tình" mang giá trị nhân bản sâu sắc.