Như chúng ta đã biết, cho đến nay trong văn kiện của Đảng đã chính thức sử dụng thuật ngữ sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước hàm ý thay thế cho sở hữu toàn dân và kinh tế quốc doanh. Việc dùng thuật ngữ sở hữu nhà nước hàm ý thay thế sở hữu toàn dân xuất phát từ 3 lập luận: Một là, trong suốt chặng đường xây dựng CNXH ở Việt Nam các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân, không những không được quản lý chặt chẽ để bảo toàn. | Cùng với vấn đề nêu trên, Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ con đường phát triển của kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, cũng như các loại hình thị trường. Đặc biệt, đối với việc nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền KTTT định hướng XHCN, Đại hội XI khẳng định sự cần thiết phải “giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường”. Theo đó, Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế, nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của CNXH bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết khác, nhưng “trên cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của nền KTTT”; Nhà nước tập trung duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng phát triển, tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, vừa không phó mặc cho thị trường, vừa không tùy tiện can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường; không lẫn lộn chức năng quản lý kinh tế Nhà nước với chức năng kinh doanh của doanh nghiệp. Năng lực và hiệu lực quản lý Nhà nước được nâng cao theo đúng những định hướng mà Đại hội XI xác định, sẽ là nhân tố vừa bảo đảm cho nền kinh tế được vận hành trôi chảy theo yêu cầu của các quy luật kinh tế khác nhau, vừa bảo đảm hiện thực hóa các mục tiêu của CNXH một cách bền vững.