Để xác định vị trí tương hổ của các điểm trên bề mặt đất trong hệ thống toạ độ thống nhất, người ta xây dựng trên mặt đất hệ thống các điểm liên hệ với nhau bằng các hình có dạng học nhất định. Việc lựa chọn vị trí đỉnh của các hình này sao cho thuận tiện đo trực tiếp các yếu tố của chúng với độ chính xác cần thiết. Từ số liệu đo, từ các phương pháp toán học và mối liên hệ giữa các đại lượng đo với các yếu tố cần xác định, sẽ tính. | TRẮC ĐỊA Phần đồ và mặt cắt địa hình PHẦN 3. BẢN ĐỒ VÀ MẶT CẮT ĐỊA HÌNH CHƯƠNG 6. LƯỚI KHỐNG CHẾ TRẮC ĐỊA . Khái quát về lưới khống chế trắc địa . Khái niệm Để xác định vị trí tương hổ của các điểm trên bề mặt đất trong hệ thống toạ độ thống nhất người ta xây dựng trên mặt đất hệ thống các điểm liên hệ với nhau bằng các hình có dạng học nhất định. Việc lựa chọn vị trí đỉnh của các hình này sao cho thuận tiện đo trực tiếp các yếu tố của chúng với độ chính xác cần thiết. Từ số liệu đo từ các phương pháp toán học và mối liên hệ giữa các đại lượng đo với các yếu tố cần xác định sẽ tính được tọa độ mặt bằng x y và độ cao H của các điểm. Tập hợp các điểm này gọi là lưới khống chế trắc địa . Vậy lưới khống chế trắc địa là hệ thống các điểm được đánh dấu chắc chắn trên mặt đất giữa chúng liên kết với nhau bởi các hình hình học và các điều kiện toán học chặt chẽ được xác định trong cùng một hệ thống tọa độ thống nhất với độ chính xác cần thiết làm cơ sở phân bố chính xác các yếu tố nội dung bản đồ và hạn chế sai số tích lũy. . Phân loại Lưới trắc địa Việt Nam theo Quyết định số 83 2000 QĐ -TT ngày 12 7 2000 của Thủ tướng Chính phủ thì từ tháng 8 năm 2000 nước ta sẽ sử dụng hệ quy chiếu và hệ tọa độ VN-2000. Lưới trắc địa có thể chia được chia làm ba loại lưới khống chế trắc địa nhà nước lưới khống chế trắc địa khu vực và lưới khống chế đo vẽ. Lưới khống chế nhà nước Việt Nam cả mặt bằng và độ cao đều được xây dựng theo bốn hạng từ hạng hạng I đến hạng IV. Lưới hạng I phủ trùm toàn quốc lưới hạng II chêm dày từ lưới hạng I sau đó chêm dày thêm để có lưới hạng III và IV. Lưới khống chế mặt bằng khu vực được phát triển ở các vùng riêng biệt khi không đủ số lượng các điểm khống chế nhà nước gồm lưới giải tích cấp 1 cấp 2 hoặc đường đường chuyền cấp 1 và cấp 2. Lưới khống chế khu vực được chêm dày từ lưới khống chế nhà nước có mật độ dày hơn nhưng độ chính xác thấp hơn. Lưới khống chế mặt bằng đo vẽ là lưới được chêm dầy từ lưới khống chế nhà nước và khu vực.