Nito là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng không chỉ đối với cây trồng, mà ngay cả đối với vi sinh vật. Nguồn dự trữ nito trong tự nhiên rất lớn, chỉ tính riêng trong không khí nito chiếm | Chương năm CHE PHẨM vi SINH VẬT LÀM PHÂN BÓN VÀ CẢI TẠO DAT A. CHẾ PHẨM vi SINH VẬT cố ĐỊNH NITƠ PHÂN TỬ Phân vi sinh vật cô định đạm phân đạm sinh học I. KHÁI NIÊM CHUNG VE QUÁ TRÌNH cố DỊNH NITƠ PHÂN TỬ Hình 3 Vòng tuần hoàn nitơ trong tự nhiên I. Quá trình cố định nitơ phân tử II. Quá trình amôn hoá III. Quá trình nitơrat hóa IV. Quá trình phản nitơrat hoá Nitơ là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng không chỉ đối với cây trổng mà ngay cả đối với vi sinh vật. Nguổn dự trữ nitơ trong tự nhiên rất lớn chỉ tính riêng trong không khí nitơ chiếm khoảng 78 16 thể tích. Người ta ước tính trong bầu không khí bao trùm lên một ha đất đai chứa khoảng 8 triệu tấn nitơ lượng nitơ này có thể cung cấp dinh dưỡng cho cây trổng hàng chục triệu năm nếu như cây trổng đổng hoá được chúng. Trong cơ thể các loại sinh vật trên trái đất chứa khoảng 10 - tấn nitơ. Trong các vật trầm tích chứa khoảng tỷ tấn nitơ. Nhưng tất cả nguổn nitơ trên cây trổng đều không tự đổng hoá được mà phải nhờ vi sinh vật. Thông qua hoạt động sống của các loài vi sinh vật nitơ nằm trong các dạng khác nhau được chuyển hoá thành dễ tiêu cho cây trổng sử dụng. Hàng năm cây trổng lấy đi từ đất hàng trăm triệu tấn nitơ. Bằng cách bón phân con người trả lại cho đất được khoảng 40 lượng thiếu hụt còn lại cơ bản được bổ sung bằng nitơ do hoạt động sống của vi sinh vật. Vì vậy việc nghiên cứu sử dụng nguổn đạm sinh học này được xem là một giải pháp quan trọng trong nông nghiệp đặc biệt trong sự phát triển nền nông nghiệp bền vững của thế kỷ 21 này. Người ta gọi quá trình chuyển hoá nitơ phân tử trong không khí thành đạm là quá trình cố định nitơ phân tử. II. QUÁ TRÌNH cố ĐỊNH NITƠ PHÂN TỬ VÀ cơ CHE Quá trình cố định nitơ phân tử là quá trình đổng hoá nitơ của không khí thành đạm amôn duới tác dụng của một số nhóm vi sinh vật có hoạt tính Nitrogenaza. Bản chất của quá trình cố định nitơ phân tử đuợc Hellrigel và Uynfac tìm ra năm 1886. Có hai nhóm VSV tham gia đó là 1 nhóm sinh vật sống tự do và hội sinh và 2