Trong xu thế công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hiện nay việc phát triển công nghiệp năng lượng là hết sức cần thiết nhưng trình độ khoa học kĩ thuật còn hạn chế và chi phí cao nên việc đưa vào sử dụng các loại năng lượng tái tạo và năng lượng hạt nhân phục vụ quá trình phát triển là vô cùng khó khăn và nguy hiểm. Do đó, Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào các nguồn năng lượng hóa thạch: than, dầu, khí. Trong đó dầu thô đóng vai trò quan trọng nhất | Lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam 11 tháng đầu năm 2011 đạt 7,68 triệu tấn với kim ngạch 6,755 tỉ USD, tăng 5,8% về lượng và tăng 51,7% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Nhật Bản dẫn đầu thị trường về lượng và kim ngạch xuất khẩu dầu thô của Việt Nam 11 tháng đầu năm 2011 đồng thời cũng có tốc độ tăng trưởng vượt bậc, đạt 1,556 triệu tấn với kim ngạch 1,356 tỉ USD, tăng 553,3% về lượng và tăng 826% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 20% trong tổng kim ngạch. Bên cạnh đó là một số thị trường xuất khẩu dầu thô của Việt Nam 11 tháng đầu năm 2011 có tốc độ tăng trưởng mạnh: Trung Quốc đạt 1,156 triệu tấn với kim ngạch 984,659 triệu USD, tăng 114,4% về lượng và tăng 201,2% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 14,6% trong tổng kim ngạch, tiếp theo đó là Hàn Quốc đạt 874,586 nghìn tấn với kim ngạch 745,938 triệu USD, tăng 7,7% về lượng và tăng 45,5% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 11% trong tổng kim ngạch, Malaysia đạt 1,016 triệu tấn với kim ngạch 873,678 triệu USD, giảm 4,2% về lượng nhưng tăng 34,3% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 12,9% trong tổng kim ngạch, sau cùng là Hoa Kỳ đạt 449 nghìn tấn với kim ngạch 385,651 triệu USD, giảm 18,9% về lượng nhưng tăng 15,4% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 5,7% trong tổng kim ngạch. Ngược lại, một số thị trường xuất khẩu dầu thô của Việt Nam 11 tháng đầu năm 2011 có độ suy giảm: Indonesia đạt 64 nghìn tấn với kim ngạch 60,356 triệu USD, giảm 68,2% về lượng và giảm 48,1% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 0,9% trong tổng kim ngạch; tiếp theo đó là Singapore đạt 420 nghìn tấn với kim ngạch 379,732 triệu USD, giảm 57,8% về lượng và giảm 35% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 5,6% trong tổng kim ngạch, Ôxtrâylia đạt 1,412 triệu tấn với kim ngạch 1,3258 tỉ USD, giảm 44,3% về lượng và giảm 20,6% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 18,6% trong tổng kim ngạch, sau cùng là Thái Lan đạt 44 nghìn tấn với kim ngạch 42, triệu USD, giảm 48,9% về lượng và giảm 16,9% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 0,6% trong tổng kim ngạch.