Trong vận tải biển, Vận đơn (bill of lading) có thể được hiểu nôm na như một “phiếu ghi nhận” (bill) của việc “xếp hàng” (loading). Theo âm Hán Việt, từ “vận đơn” gồm hai từ “vận” được hiểu là vận chuyển, và “đơn” có nghĩa là phiếu, hay chứng từ; gộp lại có thể hiểu đó là một văn bản hay chứng từ về việc vận chuyển hàng. Cách giải thích theo tiếng Anh và tiếng Hán Việt tuy có khác nhau đôi chút, nhưng tựu chung lại thuật ngữ này cũng chỉ sự ghi nhận của người vận chuyển. | Tuy nhiên, nếu như trong bộ chứng từ (ngoài B/L) không có chữ ký của người thụ hưởng thì sao. Giả thuyết này hoàn toàn có thể xảy ra vì theo Ðiều 18 UCP 600, khi L/C không yêu cầu, thì hóa đơn thương mại không cần phải ký. Ðể giải quyết thắc mắc này, chúng ta viện dẫn tới Ðiều 34 UCP 600 - Miễn trách về tính hiệu lực của chứng từ và Ðiều 14d UCP 600 - Về tính phù hợp về thông tin trên chứng từ với L/C, UCP, các chứng từ khác và chính bản thân chứng từ đó. Nếu như ở các chứng từ khác có chữ ký kèm theo tên gọi của người thụ hưởng (người gửi hàng), thì ngân hàng cần kiểm tra để đảm bảo rằng chúng phù hợp. Tuy nhiên, nếu như ở các chứng từ khác không thể hiện chữ ký của người thụ hưởng, thì ngân hàng không có trách nhiệm phải xác minh liệu rằng chữ ký này có phải là của người thụ hưởng. Hay nói cách khác, chỉ một chữ ký trên mặt sau của vận đơn cũng đủ cấu thành nên nghiệp vụ ký hậu (áp dụng trong trường hợp L/C yêu cầu ký hậu để trống, còn trong trường hợp ký hậu theo lệnh hoặc đích danh, cần phải có các thông tin này).