Đường Hóa Học

Aspartame là một chất làm ngọt nhân tạo. Mặc dù nó có cùng chỉ số calo với đường ăn thông thường nhưng nó ngọt hơn đường ăn khoảng 200 lần. Chất này được nhà Hóa Học James Schlatter làm việc cho tập đoàn G D Searle phát hiện rất tình cờ vào năm 1965 trong khi ông đang thử nghiệm thuốc chống lở loét vết thương. Chất này được cho phép sử dụng trong nước giải khát có gas vào năm 1983. Sau một thập kỷ dài đấu tranh phản đối việc sử dụng chất làm ngọt này của. | Đường Hóa Học QAspartame là một chất làm ngọt nhân tạo. Mặc dù nó có cùng chỉ số calo với đường ăn thông thường nhưng nó ngọt hơn đường ăn khoảng 200 lần. Chất này được nhà Hóa Học James Schlatter làm việc cho tập đoàn G D Searle phát hiện rất tình cờ vào năm 1965 trong khi ông đang thử nghiệm thuốc chống lở loét vết thương. Chất này được cho phép sử dụng trong nước giải khát có gas vào năm 1983. Sau một thập kỷ dài đấu tranh phản đối việc sử dụng chất làm ngọt này của John Olney nhà nghiên cứu về thần kinh học cùng với James Turner khách hàng đại diện và những khảo sát của bộ phận kiểm nghiệm của G D Searle. Người ta thấy rằng 2 thành phần chính của Aspartame là phenylalanin and aspartic acid Được biết đến với cái tên aspartate là một amino acid kích thích nó là một trong 20 amino acid cấu tạo nên protein và là một carboxylic acid tương tự asparagine tìm thấy trong protein của nhiều loài thực vật nhưng không đóng vai trò chủ yếu trong động vật và có thể hoạt động như là một tác nhân kích thích quá trình truyền tín hiệu thần kinh trong não và là một sản phẩm của quá trình trao đổi chất trong chu trình urea tham gia vào quá trình tạo thành glucose là hai chất đối quang có nghĩa là chúng có hai đồng phân mà không phải là hai ảnh gương có thể chồng lên nhau. Điều này có nghĩa là phân tử aspartame có hai tâm bất đối. Nếu các đồng phân không đối quang được sử dụng thì phân tử aspartame sẽ có hình dạng không đúng để vị giác phát hiện được nó. Trong quá trình tổng hợp aspartame nguyên liệu là một hỗn hợp racemic hàm lượng của 2 đồng phân đối quang bằng nhau 50 50 của phenylalanin và aspartic acid. Chỉ có đồng phần đối quang L của phenylalaninđược sử dụng nó được chiết ra từ hỗn hợp racemic bằng phản ứng với acetic anhydric và NaOH và sản phẩm của phản ứng này được xử lý với enzym porcine kidney Acylase là một loại enzym xúc tác rất mạnh bền ở dạng khô trong dung dịch nó bền ở nhiệt độ khoảng 700 C tại pH 7 còn nếu ở pH 5 thì nó sẽ bị biến tính. Ezym này thể hiện tính .

Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.