Luận án đánh giá được vai trò to lớn của nghệ thuật nghịch dị đối với sự đổi mới của văn học Việt Nam nói chung và tiểu thuyết nói riêng, góp phần đổi mới quan niệm về hiện thực, về con người, về thể loại. Qua đó, hướng đến đổi mới hệ hình mĩ học truyền thống qua lằn ranh của nghịch dị với tiếng cười, kì ảo, kinh dị, quái dị. | ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUỲNH THỊ THU HẬU NGHỆ THUẬT NGHỊCH DỊ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2012 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 62 22 01 21 HUẾ, 2017 Công trình được hoàn thành tại . . Người hướng dẫn khoa học: Hồ Thế Hà Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tại hội đồng chấm luận án Đại học Huế họp tại . Vào hồi giờ ngày tháng năm 201 . Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện A. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nghịch dị có từ lâu trong mạch nguồn lịch sử văn học dân tộc và hồi sinh mạnh mẽ trong thời kì đổi mới vì tinh thần hạt nhân của nghịch dị là tiếng nói tự do dân chủ, cảm quan nghịch dị gắn với những hình tượng lệch chuẩn, gắn với nhu cầu phê phán cái lạc hậu, cái xấu. Theo , tiểu thuyết là một thể loại chưa hoàn thành, đang trong quá trình vận động. Theo đó, chúng ta thấy tiểu thuyết Việt Nam từ năm 1986 đến nay đã có rất nhiều nỗ lực để khẳng định vị trí của mình trong nền văn học. Từ Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đến Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, những tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, đến tiểu thuyết của Đặng Thân, Thuận .là một quá trình liên tục cách tân táo bạo để tiểu thuyết Việt Nam theo kịp với tiểu thuyết trên thế giới. Nghịch dị dự phần xác lập sự đổi mới văn học nói chung và tiểu thuyết đương đại Việt Nam nói riêng. Sử dụng lí thuyết Grotesque để soi chiếu và kiến giải sự vận động trong đổi mới văn học Việt Nam sẽ mang lại ý nghĩa thực tiễn và học thuật cao. Chúng tôi hi vọng sẽ chỉ ra được cái đẹp, cái độc đáo và sự sáng tạo trong phương thức .