Kinh tế Đài Loan phát triển ngoạn mục gần nửa thế kỷ qua với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 7,7%/năm1, giúp Đài Loan trở thành quốc gia có thu nhập quốc dân (GNI) đầu người cao, đạt USD năm 2011 - ngang bằng với các nước EU và trở thành nền kinh tế dựa trên tri thức. Điều này có được là nhờ chính sách phát triển khoa học công nghệ có trọng điểm với sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ. | CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐÀI LOAN PHẠM THỊ THANH BÌNH* TRẦN THÙY DƯƠNG** Kinh tế Đài Loan phát triển ngoạn mục gần nửa thế kỷ qua với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 7,7%/năm1, giúp Đài Loan trở thành quốc gia có thu nhập quốc dân (GNI) đầu người cao, đạt USD năm 2011 - ngang bằng với các nước EU và trở thành nền kinh tế dựa trên tri thức. Điều này có được là nhờ chính sách phát triển khoa học công nghệ có trọng điểm với sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ. *** 1. Thực trạng phát triển khoa học công nghệ Đài Loan Từ cuối những năm 1990, Đài Loan đã trở thành một trong những lãnh thổ hàng đầu về công nghiệp viễn thông và bán dẫn với giá trị sản xuất đứng thứ ba thế giới. Trong khoa học công nghệ, ngành công nghệ thông tin và truyền thông Đài Loan phát triển rất mạnh, nhờ có cơ chế tốt, đội ngũ kỹ sư giỏi, công tác nghiên cứu và phát triển được chú trọng. Lĩnh vực sản xuất chế tạo đứng đầu với doanh thu đạt 222 tỉ USD năm 2010, tăng 29,1% so với năm 2009. Tiếp đến là doanh thu của lĩnh vực sản xuất bán dẫn đạt 51,1 tỉ USD, tăng 34,9%; quang học đóng góp 53,2 tỉ USD, tăng 43,3%. Đài Loan là nhà sản xuất máy tính xách tay đứng đầu thế giới với sản Phó giáo sư, tiến sỹ, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới. ** Thạc sỹ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội. * lượng trung bình hơn 14 triệu đơn vị sản phẩm/tháng. Đài Loan đã đầu tư rất nhiều cho hoạt động nghiên cứu và phát triển. Từ năm 2000, tổng số vốn dành cho nghiên cứu và phát triển của Đài Loan tương đương 21% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Các viện nghiên cứu của Đài Loan không thuộc nhà nước và cũng không được nhà nước bao cấp toàn bộ. Nhà nước chỉ đóng vai trò tạo không gian hoạt động bằng cơ chế cởi mở, thông thoáng, có hỗ trợ một phần kinh phí nhất định. Phần kinh phí tài trợ được dựa vào kết quả hoạt động của các viện nghiên cứu và thông qua cơ chế cạnh tranh. Trong “Chiến lược vàng” phát triển kinh tế 10 năm (2010 - 2020) Chính phủ Đài Loan coi phát triển .