Tắc động mạch phổi là một cấp cứu đòi hỏi phải được chẩn đoán sớm và điều trị ngay. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tình hình điều trị tắc động mạch phổi cấp bằng heparin không phân đoạn theo aPTT đích khuyến cáo của Hội Tim mạch Châu Âu. Đây là nghiên cứu mô tả loạt ca bệnh. | TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ĐIỀU TRỊ TẮC ĐỘNG MẠCH PHỔI CẤP BẰNG HEPARIN KHÔNG PHÂN ĐOẠN THEO aPTT ĐÍCH Trịnh Thị Thu Hiền, Nguyễn Quang Tùng, Hoàng Bùi Hải Trường Đại học Y Hà Nội Tắc động mạch phổi là một cấp cứu đòi hỏi phải được chẩn đoán sớm và điều trị ngay. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tình hình điều trị tắc động mạch phổi cấp bằng heparin không phân đoạn theo aPTT đích khuyến cáo của Hội Tim mạch Châu Âu. Đây là nghiên cứu mô tả loạt ca bệnh. Có 20 bệnh nhân đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên cứu. Tổng số lần làm aPTT là 408, trung bình 20,4 ± 13 lần (1 - 49), trong đó có 291/408 (71,3%) lần chỉnh liều heparin theo phác đồ và 117/408 (28,7%) lần theo kinh nghiệm, không có bệnh nhân nào bị chảy máu hoặc tử vong trong quá trình điều trị. Tỷ lệ đạt mục tiêu aPTT khi chỉnh theo phác đồ là 182/291 (62,5%), cao hơn theo kinh nghiệm 44/107 (37,6%) (p 0,05). Liều heparin trung bình của nhóm điều chỉnh theo phác đồ 902,3 ± 329 UI/giờ cao hơn không có ý nghĩa thống kê so với nhóm không theo phác đồ 750,0 ± 318 UI/giờ (p > 0,05). Kết luận của nghiên cứu là điều chỉnh heparin theo phác đồ của Hội tim mạch châu Âu có tỷ lệ đạt mục tiêu cao hơn, liều heparin không khác biệt so với điều chỉnh theo kinh nghiệm. Từ khóa: Tắc động mạch phổi, phác đồ heparin, aPTT I. ĐẶT VẤN ĐỀ đoạn cấp đến giai đoạn ổn định, từ điều trị cho Tắc động mạch phổi cấp là một bệnh lí cấp đến dự phòng [3]. Hiện nay có rất nhiều thuốc cứu thường gặp với tỉ lệ tử vong cao [1]. Từ chống đông được phép sử dụng cho điều trị những năm 1990 trở lại đây đã có nhiều tắc động mạch phổi; tuy nhiên từng trường nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng được tiến hợp, từng thời điểm cần phải sử dụng các loại hành cùng với các phương tiện khoa học kĩ thuốc chống đông khác nhau cho hợp lí, cho thuật hiện đại giúp cho việc chẩn đoán và điều phù hợp với diễn biến lâm sàng với mục đích trị trở nên rõ ràng hơn, tỉ lệ tử vong giảm đi tối ưu hiệu quả chống đông trong khi vẫn đảm đáng kể [1; 2]. Mặc dù vậy, .