Hội chứng ruột kích thích là một trong các bệnh lý tiêu hóa rất phổ biến ở trên thế giới và trong nước. Tuy không phải là bệnh lý thực thể và không ảnh hưởng đến tuổi thọ nhưng bệnh lại ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sống của người bệnh và làm tăng chi phí chăm sóc y tế. Cho đến nay, vẫn chưa có một điều trị đặc hiệu, tận gốc. | BỔ TÚC KIẾN THỨC SAU ĐẠI HỌC: CẬP NHẬT ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH Lược dịch và tổng hợp: Trần Văn Huy Trường Đại học Y Dược Huế Tóm tắt Hội chứng ruột kích thích là một trong các bệnh lý tiêu hóa rất phổ biến ở trên thế giới và trong nước. Tuy không phải là bệnh lý thực thể và không ảnh hưởng đến tuổi thọ nhưng bệnh lại ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sống của người bệnh và làm tăng chi phí chăm sóc y tế. Cho đến nay, vẫn chưa có một điều trị đặc hiệu, tận gốc. Những nỗ lực nghiên cứu gần đây phối hợp các điều trị không dùng thuốc và điều trị bằng thuốc, trong đó có nhiều nhóm thuốc mới như các thuốc tác động lên các thụ thể 5HT3, 5HT4, nhóm Guanylate góp phần cải thiện đáng kể triệu chứng, nâng cao chất lượng sống của người bệnh. Từ khóa: Hội chứng ruột kích thích. Summary UPDATE ON THE MANAGEMENT OF IRRITABLE BOWEL SYNDROME Tran Van Huy Hue University of Medicine and Pharmacy Irritable Bowel syndrome (IBS) is one of the most common diseases in gastrointestinal practice which affect seriously on the quality of life of the patients. A radical and specific therapy is not available until now. Management of IBS needs a complete approach including symptomatic, psychological and physiopathological treatment. Some new agents affecting on the receptors 5-HT3, 5-HT4 and Guanylate Cyclase have recently received approve from FDA and contributed to improve the quality of therapy of IBS. This article aims to review the recent progress in the researches and management of the IBS. Key words: Irritable Bowel syndrome (IBS). 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hội chứng ruột kích thích (HCRKT) là một rối loạn chức năng ruột mạn tính bao gồm đau bụng, cảm giác đầy bụng kèm theo rối loạn đại tiện. Đây là một hội chứng rất phổ biến, nếu dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Rome III thì có đến 5-20% dân số Châu Âu mắc bệnh này [8]. Tần suất này ở Hoa Kỳ là khoảng 10-20% [10], ở các nước châu Á là khoảng 2,9-15,6% [1]. Tần suất ở nữ cao gấp 2-3 lần ở nam và trên 50% bệnh nhân có .