Mục tiêu của bài viết là nhận xét cơ cấu bệnh nhân Da liễu đến khám tại Bệnh viện Trường đại học Y-Dược Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả trên các bệnh nhân đến khám và điều trị tại phòng khám Da liễu. | Phạm Công Chính Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 169 - 173 NHẬN XÉT TÌNH HÌNH BỆNH NHÂN DA LIỄU TẠI PHÕNG KHÁM BỆNH VIỆN TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y- DƢỢC THÁI GUYÊN Phạm Công Chính* Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Mục tiêu: Nhận xét cơ cấu bệnh nhân Da liễu đến khám tại Bệnh viện Trƣờng đại học Y-Dƣợc Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả trên các bệnh nhân đến khám và điều trị tại phòng khám Da liễu. Kết quả: Nam: 37,60%, nữ chiếm 62,40%, chủ yếu là học sinh-sinh viên: 43,02% , với tỷ lệ bảo hiểm y tế: 74,54%. Bệnh ngoài da hay gặp nhất là nhóm bệnh da dị ứng: 47,10% trong đó chủ yếu là mày đay không rõ nguyên nhân, viêm da cơ địa và sẩn ngứa. Nhóm bệnh lý nang lông-tuyến bã: 16,71%, trong đó chủ yếu là trứng cá tuổi trẻ. Nhóm bệnh do vi-ký sinh trùng và nấm: 13,20% và 9,10%, trong đó chủ yếu là: chốc, viên chân lông, tóc và hắc lào. Các bệnh lý ngoài da khác có tỷ lệ thấp hơn. Từ khoá: Bệnh ngoài da, Cơ cấu bệnh da liễu ĐẶT VẤN ĐỀ* Bệnh ngoài da là bệnh thƣờng gặp ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lứa tuổi, mọi nghề nghiệp, là bệnh khá phổ biến trong cộng đồng. Bệnh ít gây nguy hiểm đến tính mạng nhƣng ảnh hƣởng đến thẩm mỹ, sinh hoạt và hiệu suất lao động [4]. Bệnh gặp ở tất cả các cơ sở y tế, các phòng khám bệnh với nhiều biểu hiện bệnh lý khác nhau. Theo một nghiên cứu tại Thái Nguyên (1999), bệnh ngoài da chiếm 17,17% dân số và bệnh nhân bị bệnh ngoài da điều trị nội trú tại khoa Da liễu Bệnh viện đa khoa Thái Nguyên chiếm tỷ lệ 1,25% tổng số bệnh nhân toàn Bệnh viện [2]. Tại Hải Phòng, tỷ lệ bệnh da trong cộng đồng: 11,77%, tại Quảng Trị: 18,4%, tại Tuyên Quang 20,65% và tại thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ này là 20-25% [trích 1] Bệnh viên trƣờng đại học Y - Dƣợc Thái Nguyên đƣợc thành lập từ năm 2007 đến nay đã đƣợc 5 năm hoạt động, bệnh viện đã khám và điều trị cho hàng ngàn lƣợt bệnh nhân, trong đó có các bệnh nhân da liễu. Việc đánh giá đƣợc cơ cấu bệnh, tính đa dạng và phổ biến của bệnh hay nhóm bệnh, thành phần và đối tƣợng bệnh nhân