Mục tiêu của bài viết là đánh giá chẩn đoán và xử trí chửa ngoài tử cung tại khoa sản bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên năm 2011. Đối tượng nghiên cứu: Gồm 52 bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị chửa ngoài tử cung tại khoa sản bệnh viên đa khoa trung ương Thái Nguyên. | NHẬN XÉT CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ CHỬA NGOÀI TỬ CUNG TẠI KHOA SẢN BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƢƠNG THÁI NGUYÊN Nguyễn Thị Hồng*, Cấn Bá Quát, Tạ Quốc Bản, Hoàng Quốc Huy SVY6K39 Nguyễn Minh Tuấn, Vũ Thanh Tuấn, Lê Thị Thanh Tâm, SVY4K41 Nguyễn Thị Bách Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Mục tiêu: đánh giá chẩn đoán và xử trí chửa ngoài tử cung tại khoa sản bệnh viện đa khoa Trung ƣơng Thái Nguyên năm 2011. Đối tƣợng nghiên cứu: Gồm 52 bệnh nhân đƣợc chẩn đoán và điều trị chửa ngoài tử cung tại khoa sản bệnh viên đa khoa trung ƣơng Thái Nguyên. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 1/2011 đến tháng 10/2011. Phƣơng pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Kết quả và kết luận: Tỉ lệ chửa ngoài tử cung gặp ở phụ nữ có tiền sử nạo hút thai cao nhất chiếm 47,4%. Có 82,3% bệnh nhân có cả 3 triệu chứng cơ năng của chửa ngoài tử cung. có 34,5% bệnh nhân có triệu chứng thực tể phần phụ có khối nề đau; 23,0% bệnh nhân có choáng do mất máu. Chỉ có 46,5% bệnh nhân có hình ảnh siêu âm điển hình của chửa ngoài tử cung, khối chửa ở đoạn bóng vòi trứng chiếm tỉ lệ cao nhất 34,6% có tới 52,1% khối chửa đã vỡ. Tất cả bệnh nhân đều xử trí chửa ngoài tử cung bằng phƣơng pháp phẫu thuật trong đó cắt đoạn vòi trứng chiếm 76,9%. Từ khóa: ĐẶT VẤN ĐỀ* Chửa ngoài tử cung (CNTC) là một cấp cứu chảy máu trong 3 tháng đầu của thai kỳ, nếu không đƣợc chẩn đoán và điều trị kịp thời khối chửa có thể vỡ đột ngột gây chảy máu trong ổ bụng ảnh hƣởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng, thậm chí có thể gây tử vong, ngay cả những trƣờng hợp đƣợc xử trí sớm thì vẫn có nguy cơ cao về khả năng sinh sản của ngƣời phụ nữ. Tại Việt Nam cũng nhƣ trên thế giới tần suất CNTC ngày càng gia tăng. Tại Mỹ năm 1970 tỷ lệ CNTC là 4,5/1000 các trƣờng hợp mang thai [7]. Tại Việt Nam năm 2000 tỷ lệ CNTC là 30,7/1000, năm 2002 là 40,06/1000 tổng số thai nghén. Nếu chẩn đoán sớm CNTC ở giai đoạn khối chửa chƣa vỡ thì sẽ giảm đƣợc tỷ lệ tử vong và bệnh nhân sẽ đƣợc áp dụng những phƣơng pháp điều trị tối ƣu nhƣ: phẫu thuật nội soi bảo