Khám phá khái niệm Thể diện trong Tiếng Việt: Bằng chứng từ kết hợp từ

Ghi nhận vai trò quan trọng của khái niệm thể diện trong giao tiếp và những tranh luận chưa ngã ngũ về các cấu thành của khái niệm này, bài viết khám phá nội hàm khái niệm thể diện trong văn hóa Việt dựa trên việc phân tích những diễn đạt phổ biến của “mặt/thể diện” trong tiếng Việt. Bài viết chỉ ra rằng nội hàm khái niệm thể diện trong văn hóa Việt không đồng nhất với khái niệm này trong học thuyết lịch sự lấy thể diện làm trung tâm vốn được xem là mang tính phổ quát. Để tìm hiểu rõ hơn, mời các bạn cùng xem và tham khảo. | Electronic Journal of Foreign Language Teaching 2007, Vol. 4, No. 2, pp. 257–266 © Centre for Language Studies National University of Singapore Khám phá Khái niệm Thể diện trong Tiếng Việt: Bằng chứng từ Kết hợp Từ Hồng Nhung Phạm () The University of Queensland, Australia Abstract Ghi nhận vai trò quan trọng của khái niệm Thể diện trong giao tiếp và những tranh luận chưa ngã ngũ về các cấu thành của khái niệm này, bài viết khám phá nội hàm khái niệm Thể diện trong văn hóa Việt dựa trên việc phân tích những diễn đạt phổ biến của “mặt/thể diện” trong tiếng Việt. Bài viết chỉ ra rằng nội hàm khái niệm Thể diện trong văn hóa Việt không đồng nhất với khái niệm này trong học thuyết lịch sự lấy thể diện làm trung tâm vốn được xem là mang tính phổ quát của Brown và Levinson (1987). Cụ thể là khía cạnh thể diện âm tính (mong muốn của cá nhân được tự chủ trong hành động) không nằm trong nội hàm khái niệm Thể diện trong văn hóa Việt. Ngoài ra, trái với học thuyết của Brown và Levinson trong đó Thể diện không bao hàm đặc tính và phẩm chất của tập thể mà cá nhân gắn bó, Thể diện trong văn hóa Việt lại là một khái niệm tương trợ trong đó cá nhân chia sẻ một phần thể diện của mình với tập thể. Từ kết quả phân tích bài viết cũng đưa ra một số đề xuất đối với quá trình dạy và học ngoại ngữ có liên quan đến khái niệm này. 1 Vài nét về khái niệm thể diện trong lịch sử nghiên cứu Dựa trên khái niệm thể diện (face) của Goffman (1967), vốn là cách dịch sát của hai từ tiếng Hán là mien/mian và lien/lian (Mao, 1994), thuyết lịch sự của Brown và Levinson (1987) được xem là có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nghiên cứu ứng xử ngôn ngữ nói chung và lịch sự nói riêng (Watts, 2003), đặc biệt là trong môi trường giao tiếp giao văn hóa (intercultural communication) khi ít nhất một trong hai phía tham gia giao tiếp sử dụng ngôn ngữ giao tiếp như một ngoại ngữ (Phạm, 2007a). Thể diện trong mô hình của Brown và Levinson có 2 khía cạnh: thể diện âm tính .

Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
2    70    2    17-04-2024
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.