Mục tiêu nghiên cứu: Xác định được thành phần ĐVKXS cỡ lớn trên sông Hàn, thành phố Đà Nẵng đoạn từ Cầu Đỏ đến gần Ngã ba cầu Tuyên Sơn, đánh giá chất lượng môi trường nước sông qua hệ thống điểm BMWPVIET và chỉ số ASPT. Mời các bạn tham khảo! | 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG PHAN THỊ HIỀN NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC SÔNG HÀN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẰNG BẰNG CHỈ THỊ ĐỘNG VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG CỠ LỚN Chuyên ngành: SINH THÁI HỌC Mã số: TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Đà Nẵng, Năm 2011 2 Công trình ñược hoàn thành tại ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐÌNH ANH Phản biện 1: TS. HUỲNH NGỌC THẠCH Phản biện 2: TS. TRƯƠNG VĂN TẤN Luận văn ñược bảo vệ trước Hội ñồng chấm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa học họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 27 tháng 11 năm 2011. * Có thể tìm hiểu luận văn tại: - Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng - Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của ñề tài Quan trắc môi trường nước sông có vai trò rất quan trọng trong việc ra quyết ñịnh, xây dựng các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Quốc gia và của mỗi thành phố. Đến nay, trên thế giới và Việt Nam ñã sử dụng chủ yếu phương pháp quan trắc môi trường nước sông: quan trắc lý hóa và quan trắc sinh học. Do các thiết bị quan trắc lý - hóa ngày càng hiện ñại và phổ biến nên phương pháp này trở nên tối ưu và ñược áp dụng rộng rãi. Mặc dù quan trắc hóa - lý ñánh giá ñược mức ñộ ô nhiễm nước nhưng không ñánh giá ñược ảnh hưởng của ô nhiễm ñến hệ sinh vật thủy sinh, phát hiện những biến ñổi sinh thái và xác ñịnh mối tương quan giữa chất lượng nước và sinh vật. Trong khi quan trắc sinh học bằng ñộng vật không xương sống (ĐVKXS) cỡ lớn lại giải quyết ñược những nhược ñiểm trên của phương pháp quan trắc lý hóa. Ngoài ra, quan trắc sinh học còn có nhiều ưu ñiểm như: ñơn giản; thu thập ñịnh lượng, bảo quản dễ dàng; rẻ tiền, ñặc biệt là thuận lợi cho việc giám sát về sau. Quan trắc sinh học thông qua ĐVKXS cỡ lớn ñã ñược nghiên cứu, thử nghiệm áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới từ những năm 1970 trên cơ sở sử dụng hệ thống tính ñiểm số sinh học (BMWP) của Anh. Ở Việt Nam, mặc dù ñã có những nghiên cứu sớm về .