Bài báo giới thiệu mô hình chu trình chuyển hoá Nitơ trong hệ sinh thái biển và một số kết quả áp dụng mô hình để tính toán năng suất sinh học sơ cấp tại vùng biển vịnh Bắc bộ. Bài giới thiệu chu trình, nguyên tố Nitơ được chuyển hoá qua 5 hợp phần: thực vật nổi, động vật nổi, chất hữu cơ hoà tan, Amoni và Nitrat. | Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển T11 (2011). Số 4. Tr 75 - 96 MÔ HÌNH CHU TRÌNH CHUYỂN HOÁ NITƠ TRONG HỆ SINH THÁI BIỂN ÁP DỤNG CHO VÙNG BIỂN VỊNH BẮC BỘ NGUYỄN NGỌC TIẾN Viện ðịa chất và ðịa vật lý biển NGUYỄN CHÍ CÔNG Viện Hải dương học DƯ VĂN TOÁN Tổng cục Biển và Hải ñảo Việt Nam Tóm tắt. Bài báo giới thiệu mô hình chu trình chuyển hoá Nitơ trong hệ sinh thái biển và một số kết quả áp dụng mô hình ñể tính toán năng suất sinh học sơ cấp tại vùng biển vịnh Bắc bộ. Bài giới thiệu chu trình, nguyên tố Nitơ ñược chuyển hoá qua 5 hợp phần: thực vật nổi, ñộng vật nổi, chất hữu cơ hoà tan, Amoni và Nitrat. Các quá trình chuyển hoá trong chu trình ñược mô phỏng toán học bằng hệ phương trình vi phân hữu tuyến. Kết quả tính toán cho thấy sức sản xuất sơ cấp thô của vùng biển vịnh Bắc bộ trong mùa ñông dao ñộng chủ yếu từ 30 - 63 mgC/m3/ngày, trung bình 57 mgC/m3/ngày, trong ñó lượng sản phẩm tinh dao ñộng từ 5 - 25 mgC/m3/ngày, trung bình 21 mgC/m3/ngày. Sản phẩm năng suất thứ cấp giá trị trung bình 5,6 mgC/m3/ngày và dao ñộng trong khoảng 2,8 - 6,0 mgC/m3/ngày. Hệ số P/B ngày của thực vật nổi có giá trị trung bình 0,85, hiệu suất tự dưỡng 1,54 và hiệu suất chuyển hoá năng lượng tự nhiên của vùng biển khoảng 0,03%. Trong mùa hè, sức sản xuất sơ cấp thô dao ñộng trong khoảng 67 - 77 mgC/m3/ngày, trung bình 72,43 mgC/m3/ngày, lượng sản phẩm tinh dao ñộng trong khoảnng 28 - 32 mgC/m3/ngày trung bình 30 mgC/m3/ngày, năng suất thứ cấp dao ñộng trong khoảng - mgC/m3/ngày, trung bình ñạt mgC/m3/ngày. Hệ số P/B ngày của thực vật nổi có giá trị trung bình , hiệu suất tự dưỡng 1,7 và hiệu suất chuyển hoá năng lượng tự nhiên của vùng biển khoảng 0,02%. I. MỞ ðẦU Quan trắc, ño ñạc các yếu tố hóa sinh tại các vùng biển Việt Nam còn chưa ñược thực hiện thường xuyên và có hệ thống. Trong công trình này, các tác giả ñã sử dụng các mô hình toán và phương pháp số trong nghiên cứu hệ sinh thái biển ở Việt Nam. Hướng nghiên cứu này có nhiều triển vọng, ñược xây dựng .