Trong nghiên cứu này, chúng tôi xác định nồng độ MMP-9 huyết thanh của 205 bệnh nhân HCMVC (bao gồm 103 bệnh nhân NSTE-ACS và 102 bệnh nhân STEMI) và 101 người tham gia tình nguyện bằng phương pháp sandwich ELISA. Kết quả phân tích cho thấy nồng độ MMP-9 ở hai nhóm bệnh NSTE-ACS và STEMI đều cao hơn đáng kể so với đối chứng (tương ứng là 208,59 ± 100,47 ng/mL, 189,98 ± 112,81 ng/mL so với 168,50 ± 79,52 ng/mL, P=0,014). T | Tạp chí Công nghệ Sinh học 15(1): 15-21, 2017 NỒNG ĐỘ MATRIX METALLOPROTEINASE-9 TRONG HUYẾT THANH BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG MẠCH VÀNH CẤP Ở VIỆT NAM Đỗ Hữu Chí1, Nguyễn Thị Minh Phương1, Bùi Thị Huyền1, Nguyễn Tiến Dũng1, Phạm Đình Minh1, Đỗ Doãn Lợi2, Nguyễn Thúy Huyền3, Nguyễn Bích Nhi1, Phan Văn Chi1, Lê Thị Bích Thảo1, * 1 Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Viện Tim mạch quốc gia, Bệnh viện Bạch Mai, Bộ Y tế 3 Học viện Quân y, Bộ Quốc Phòng 2 * Người chịu trách nhiệm liên lạc. E-mail: lethao@ Ngày nhận bài: Ngày nhận đăng: TÓM TẮT Hội chứng mạch vành cấp (HCMVC) là một trong những nguyên nhân hàng đầu về tỷ lệ mắc bệnh và tử vong trên thế giới trong đó có Việt Nam. HCMVC được phân loại thành 2 nhóm HCMVC không có đoạn ST chênh lên (segment-elevation, ST) (Non-ST-elevation ACS, NSTE-ACS) và nhồi máu cơ tim có ST chênh lên (segment elevation myocardial infarction, STEMI), mà bị gây ra do sự phá vỡ hay xói mòn của các mảng bám xơ vữa. Matrix Metalloproteinases (MMPs), một họ các enzyme giữ chức năng quan trọng trong việc phân hủy chất nền ngoại bào và phá vỡ lớp màng cơ bản. Matrix Metalloproteinase-9 (MMP-9) là một thành viên trong số MMPs được phát hiện trong các mảng xơ vữa động mạch và đóng vai trò quan trong trong việc phá vỡ các mảng xơ vữa dể bị tổn thương. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xác định nồng độ MMP-9 huyết thanh của 205 bệnh nhân HCMVC (bao gồm 103 bệnh nhân NSTE-ACS và 102 bệnh nhân STEMI) và 101 người tham gia tình nguyện bằng phương pháp sandwich ELISA. Kết quả phân tích cho thấy nồng độ MMP-9 ở hai nhóm bệnh NSTE-ACS và STEMI đều cao hơn đáng kể so với đối chứng (tương ứng là 208,59 ± 100,47 ng/mL, 189,98 ± 112,81 ng/mL so với 168,50 ± 79,52 ng/mL, P=0,014). Tuy nhiên, phân tích hồi quy logistic cho thấy chỉ có ở nhóm NSTE-ACS thì sự khác biệt mới có ý nghĩa (OR= 1,0048, CI 95%= 1,000-1,009; P= 0,018). Kết quả phân tích hồi quy logistic với nhiều biến với các nguy cơ rủi ro khác .