Nghiên cứu đặc tính mô bệnh học động mạch ngực trong hai bên và động mạch vị mạc nối phải sử dụng trong phẫu thuật bắc cầu mạch vành

Bài viết nhằm khảo sát đặc tính mô học và bệnh học của động mạch ngực trong hai bên, động mạch vị mạc nối phải sử dụng trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành và phân tích các yếu tố nguy cơ, các bệnh lý đi kèm liên quan đến bệnh học của hai loại động mạch này. | Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH MÔ BỆNH HỌC ĐỘNG MẠCH NGỰC TRONG HAI BÊN VÀ ĐỘNG MẠCH VỊ MẠC NỐI PHẢI SỬ DỤNG TRONG PHẪU THUẬT BẮC CẦU MẠCH VÀNH Đoàn Văn Phụng*, Tohru Asai** TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Chúng tôi khảo sát đặc tính mô học và bệnh học của động mạch ngực trong hai bên, động mạch vị mạc nối phải sử dụng trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành và phân tích các yếu tố nguy cơ, các bệnh lý đi kèm liên quan đến bệnh học của hai loại động mạch này. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 90 đoạn động mạch ngực trong hai bên và 33 đoạn động mạch vị mạc nối phải thu thập từ các bệnh nhân phẫu thuật bắc cầu động mạch vành được khảo sát đặc tính mô học và bệnh học bằng kính hiển vi quang học. Chúng tôi cũng ghi nhận các yếu tố nguy cơ của ở các bệnh nhân để tìm mối liên quan giữa chúng và đặc tính bệnh học của động mạch ghép. Kết quả: Đặc tính mô học của động mạch ghi nhận ở động mạch ngực trong hai bên có 16,7% loại đàn hồi, 58,9% loại cơ. Phần lớn các đoạn động mạch vị mạc nối phải là loại cơ (87,9%). Số lượng trung bình các khoảng hở ở lớp màng đáy của động mạch vị mạc nối phải (41) cao hơn ở động mạch ngực trong hai bên (30) (p0,05). Khảo sát đặc tính bệnh học cho thấy ở động mạch ngực trong hai bên tỉ lệ tăng sinh nội mạc là 47,8%, tổn thương xơ vữa là 1,1% không có trường hợp vôi hóa động mạch. Động mạch vị mạc nối phải có tỉ lệ tăng sinh nội mạc là 67,9%, tỉ lệ xơ vữa là 8,2% và 4,01% vôi hóa động mạch. Đánh giá mức độ tăng sinh nội mạc trên từng loại động mạch cho thấy động mạch ngực trong hai bên có độ 0, I, II, III tương ứng là 62,2%; 17,7%; 7,7%; 12,4%. Ở động mạch vị mạc nối phải các giá trị này là 31,2%; 44,2%; 18,1% và 16,5%. So sánh độ hẹp lòng mạch máu cũng ghi nhận ở động mạch vị mạc nối phải nhiều hơn động mạch ngực trong (p . Pathological examination of RGEAs and ITAs were also recorded that intimal hyperplasia were seen in 22 of 33 specimens (), 43 of 90 specimens .

Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.