Nghiên cứu với mục tiêu nhằm đánh giá hiệu quả của bupivacaine đẳng trọng so với chirocaine trong gây tê tủy sống, tìm hiểu tác dụng không mong muốn của 2 loại thuốc trên. bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết. | Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 SO SÁNH TÁC DỤNG CỦA BUPIVACAINE ĐẲNG TRỌNG VÀ CHIROCAINE TRONG PHƯƠNG PHÁP KẾT HỢP GÂY TÊ TỦY SỐNG - NGOÀI MÀNG CỨNG ĐỂ MỔ THAY KHỚP HÁNG NGƯỜI CAO TUỔI Lê Văn Chung*, Nguyễn Văn Chừng** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Nghiên cứu này từ tháng 6-2010 đến tháng 5-2011 tại khoa Gây mê Hồi sức Bệnh viện SÀI GON – ITO đã sử dụng 3mg Bupivacaine đẳng trọng (cho nhóm B) hoặc 3mg Chirocaine (cho nhóm C) phối hợp Sufentanil 5mcg tiêm vào khoang dưới nhện trong phương pháp kết hợp gây tê tê tủy sống và ngoài màng cứng cho 79 bệnh nhân phẫu thuật thay khớp háng từ 70- 98 tuổi. Thời gian mổ trung bình nhóm B/C là 53,2±8,4/ 52,3±7,6 phút. Mục tiêu: - Đánh giá hiệu quả của Bupivacaine đẳng trọng so với Chirocaine trong gây tê tủy sống. - Tìm hiểu tác dụng không mong muốn của 2 loại thuốc trên. Phương pháp: Tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên. Kết quả: Thời gian bắt đầu ức chế cảm giác và thời gian liệt vận động của 2 nhóm không khác nhau có ý nghĩa (2,5±1,7phút của nhóm B so với 3±1,8 phút nhóm C; 61,6±13,5phút của nhóm B so với 60,7±13ô phút của nhóm C. Nhịp tim, huyết áp, nhịp thở SpO2 giữa 2 nhóm không khác biệt. Huyết áp và nhịp tim của mỗi nhóm sau gây 5 phút, 20 phút, lúc rạch da và lúc đóng vết mổ thấp hơn thời điểm trước khi gây tê có ý nghĩa. Kết luận: Sử dụng 5mcg Sufenatanil kết hợp với 3 mg Chirocaine hoặc kết hợp với 3mg Bupivacaine đẳng trọng tiêm vào khoang dưới nhện trong kỹ thuật kết hợp gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng cho phẫu thuật thay khớp háng ở người cao tuổi có hiệu quả như nhau, ít tác dụng phụ. Từ khóa: gây tê tuỷ sống và ngoài màng cứng. ABSTRACT COMPARISION OF CHIROCAINE AND ISOTONIC BUPIVACAINE FOR COMBINED SPINAL-EPUDURAL FOR HIP REPLACEMENT IN ELDERLY PATIENTS Le Van Chung, Nguyen Van Chung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 406 - 410 Background: From June 2007 to may 2009, the Anesthesia department of SAIGON –ITO Hospital of this study .