Nghiên cứu được thiết kế nhằm kiểm định giá trị bảng điểm CCQ) trong đánh giá bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Nghiên cứu được thực hiện trên 153 bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đến khám tại bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM từ 04/2009 đến 10/2011. | Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 GIÁ TRỊ BẢNG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ LÂM SÀNG COPD (CCQ – CLINICAL COPD QUESTIONNAIRE) TRONG ĐÁNH GIÁ BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH Lê Khắc Bảo* TÓM TẮT Mở đầu: Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là một bệnh toàn thân, cần được đánh giá toàn bộ. Một công cụ có giá trị và khả thi trong đánh giá BPTNMT trên lâm sàng là nhu cầu có thực. Bảng điểm đánh giá lâm sàng COPD (CCQ) có giá trị và khả thi trong đánh giá BPTNMT, nhưng bảng CCQ phiên bản tiếng Việt chưa được kiểm định tại Việt nam. Mục tiêu: Kiểm định giá trị bảng điểm CCQ) trong đánh giá BPTNMT. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 153 bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) đến khám tại bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM từ 04/2009 đến 10/2011. Bệnh nhân BPTNMT được phỏng vấn bằng bảng câu hỏi CCQ. Cùng thời điểm này bệnh nhân được đo phế thân ký, thực hiện trắc nghiệm đi bộ 6 phút, và trả lời bảng câu hỏi chất lượng cuộc sống SGRQ. Hệ số tương quan giữa điểm số CCQ lần lượt với các chỉ số phế thân ký, khoảng cách đi bộ sáu phút, điểm số SGRQ được tính toán nhằm kiểm định tính giá trị của bảng CCQ phiên bản tiếng Việt trong đánh giá BPTNMT. Kết quả: Hệ số tương quan giữa điểm số CCQ với các chỉ số phế thân ký sau trắc nghiệm giãn phế quản: (a) FEV1 = - 0,291 (P 0,05 0,05 < 0,01 < 0,01 < 0,01 Tương quan giữa điểm số CCQ với điểm số SGRQ Điểm số CCQ Điểm triệu chứng Điểm chức năng Điểm tâm thần kinh Hệ số R 0,505 0,663 0,517 Trị số P < 0,01 < 0,01 < 0,01 61 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Điểm số CCQ Điểm toàn bộ Hệ số R 0,712 Trị số P < 0,01 BÀN LUẬN Đặc điểm dân số nghiên cứu Tuổi trung bình là 66,2 ± 10,9 với ưu thế là bệnh nhân nam 92,8% là phù hợp với đặc điểm chung của BPTNMT vốn xuất hiện trên người lớn tuổi. Đặc điểm về tuổi và giới trong nghiên cứu này tương tự kết quả nghiên cứu tần suất BPTNMT tại Việt nam của Nguyễn Thị Xuyên và cs, trong đó độ tuổi mắc BPTNMT chủ .