Trong đề tài này với mục tiêu nhằm nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và phương pháp điều trị các bệnh nhân bị bỏng cơ quan sinh dục ngoài và vùng đáy chậu được điều trị tại BV Chợ rẫy từ 01/05/2008 đến 30/01/2011. | Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 ĐIỀU TRỊ BỎNG CƠ QUAN SINH DỤC NGOÀI VÀ VÙNG ĐÁY CHẬU Nguyễn Trọng Luyện* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tỉ lệ các bệnh nhân bị bỏng có bỏng cơ quan sinh dục và vùng đáy chậu từ 2,8% đến 12%. Công việc điều trị đối với những bệnh nhân bị bỏng nặng cơ quan sinh dục và vùng đáy chậu rất khó khăn. Để tránh những di chứng sau bỏng, chúng ta nên mổ tạo hình cơ quan sinh dục và vùng đáy chậu ngay sau khi cắt lọc hoại tử. Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và phương pháp điều trị các bệnh nhân bị bỏng cơ quan sinh dục ngoài và vùng đáy chậu được điều trị tại BV Chợ rẫy từ 01/05/2008 đến 30/01/2011. Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu các bệnh nhân bị bỏng có bỏng cơ quan sinh dục và vùng đáy chậu môn được điều trị sống tại BV Chợ rẫy từ 01/05/2008 đến 30/01/2011. Kết quả: Báo cáo trình bày 90 bệnh nhân gồm 8 Nữ (8,9%) và 82 Nam (91,1%) bị bỏng cơ quan sinh dục ngoài và vùng đáy chậu được điều trị tại Khoa Phỏng BV Chợ Rẫy. Tỉ lệ: 4,35%. Độ tuổi trung bình 32,32 tuổi. Nguyên nhân do tai nạn lao động chiếm đa số: 66,7% với tác nhân chủ yếu là do điện cao thế: 50%. Có tất cả 47 bệnh nhân có bỏng sâu trên cơ quan sinh dục, tuy nhiên chỉ có 32 bệnh nhân phải can thiệp phẫu thuật. Đối với các bệnh nhân có bỏng sâu nhưng diện hẹp chỉ cần chăm sóc tại chỗ hay thêm phẫu thuật cắt lọc ghép da là đủ. Tuy nhiên ở những bệnh nhân có bỏng sâu diện rộng cơ quan sinh dục và vùng đáy chậu, nếu chỉ cắt lọc hoại tử, ghép da đơn thuần sẽ để lại di chứng sẹo co rút làm biến dạng cơ quan sinh dục và vùng đáy chậu ảnh hưởng đến chức năng sinh dục và bài tiết sau này. Ở các bệnh nhân này, chúng tôi tạo hình lại dương vật và vùng đáy chậu bằng các vạt da bìu, vạt tại chỗ để phục hồi sự khuyết hổng mô trong giai đoạn bỏng mới cho kết quả tốt. Kết luận: bỏng cơ quan sinh dục ngoài và và vùng đáy chậu là dạng bỏng thường gặp trên lâm sàng, tỉ lệ: 4,36%. Đối với bỏng nông chỉ cần chăm sóc tại chỗ. Đối với bệnh nhân bỏng sâu cơ quan .