Giá trị của hàng hóa là do LĐ XH, LĐ trừu tượng của người SX hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó. Lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng LĐ tiêu hao để SX ra hàng hóa đó và nó được tính bằng ngày, giờ, tháng, năm. Trong thực tế, có nhiều người cùng SX ra một mặt hàng, nhưng điều kiện SX, trình độ tay nghề, NSLĐ khác nhau. Thế nhưng lượng giá trị của hàng hóa không phải do mức hao phí LĐ cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian LĐ XH cần thiết | Câu 8: Trình bày lượng giá trị của hàng hóa. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa. Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề trên đối với việc xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, phát triển KHCN của Đảng và Nhà nước VN Lượng giá trị của hàng hóa - Giá trị của hàng hóa là do LĐ XH, LĐ trừu tượng của người SX hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó. - Lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng LĐ tiêu hao để SX ra hàng hóa đó và nó được tính bằng ngày, giờ, tháng, năm. Trong thực tế, có nhiều người cùng SX ra một mặt hàng, nhưng điều kiện SX, trình độ tay nghề, NSLĐ khác nhau. Thế nhưng lượng giá trị của hàng hóa không phải do mức hao phí LĐ cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian LĐ XH cần thiết. - Thời gian LĐ XH cần thiết là thời gian cần để SX ra một hàng hóa trong điều kiện sản xuất trung bình, với trình độ thành thạo trung bình, một cường độ lao động trung bình và trình độ kỹ thuật trung bình của XH. Thông thường, thời gian LĐ XH cần thiết là thời gian LĐ cá biệt của người SX cung cấp đại bộ phận hàng hóa trên thị trường quyết định Thời gian LĐ XH cần thiết là một đại lượng không cố định. Khi thời gian LĐ XH cần thiết thay đổi (cao hay thấp) thì lượng giá trị của hàng hóa cũng sẽ thay đổi. Như vậy, chỉ có lượng LĐ XH cần thiết, hay thời gian LĐ XH cần thiết để SX ra một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa ấy. Đó cũng chính là giá trị XH chứ không phải là giá trị cá biệt của hàng hóa. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa Sự thay đổi của lượng giá trị hàng hóa phụ thuộc vào: * Năng suất LĐ: là năng lực sản xuất của LĐ, được đo bằng lượng thời gian cần thiết để SX ra một đơn vị sản phẩm, hoặc số lượng sản phẩm SX ra trong một đơn vị thời gian. Nếu NSLĐ tăng thì lượng giá trị hàng hóa giảm. Có 3 nhân tố ảnh hưởng đến năng suất LĐ: - Trình độ khéo léo (thành thạo) của LĐ - Mức độ ứng dụng các thành tựu của KHCN - Trình độ tổ chức quản lý, hiệu suất sử dụng các yếu tố đầu vào. * Cường độ LĐ: cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của LĐ; là sự tiêu hao thần kinh cơ bắp trong một đơn vị thời gian. Khi cường độ LĐ tăng thì lượng giá trị của hàng hóa không thay đổi. Tăng cường độ LĐ, thực chất chính là việc kéo dài thời gian LĐ. Cường độ LĐ phụ thuộc vào: - Trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của TLSX - Thể chất, tinh thần của người LĐ So sánh năng suất LĐ và cường độ LĐ: - Giống nhau: số lượng sản phẩm tăng - Khác nhau: + Năng suất LĐ: dựa vào máy móc là chủ yếu. + Cường độ LĐ: chủ yếu dựa vào con người. Vậy NSLĐ tăng tốt hơn cường độ LĐ * Mức độ giản đơn hay phức tạp của LĐ: - LĐ giản đơn: không qua đào tạo, huấn luyện - LĐ phức tạp: qua đào tạo, huấn luyện Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề trên đối với việc xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, phát triển KHCN của Đảng và Nhà nước VN Như vậy, mấu chốt để hạ giá trị cá biệt của SX hàng hóa là: tăng NSLĐ - Có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đào tạo nghề, tăng cường kĩ năng, kĩ xảo, kĩ luật của người LĐ - Cải tiến tổ chức quản lý, hợp lý hóa SX kinh doanh - Ứng dụng có hiệu quả KHCN - Tiết kiệm chi phí SX