Nghiên cứu đầu tiên về khu hệ tuyến trùng sống tự do trong đất thuộc bộ Dorylaimida được thực hiện ở VQG Yok Đôn cũng như ở khu vực Tây Nguyên. Mời các bạn tham khảo! | HỘI NGHỊ KHOA HỌC TOÀN QUỐC VỀ SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT LẦN THỨ 5 THÀNH PHẦN LOÀI TUYẾN TRÙNG BỘ Dorylaimida TẠI VƯỜN QUỐC GIA YOK ĐÔN TỈNH ĐẮK LẮK VŨ THỊ THANH TÂM, NGUYỄN THỊ ÁNH DƯƠNG i n inh h i v T i ng yên inh vậ i n n Kh a h v C ng ngh i a Vườn Quốc gia (VQG) Yok Đôn nằm trên một vùng tương đối bằng phẳng, chủ yếu là rừng tự nhiên, phần lớn là rừng khộp. Yok Đôn cũng là Vườn Quốc gia duy nhất ở Việt Nam bảo tồn loại rừng đặc biệt này. Tuyến trùng sống tự do trong đất bộ Dorylaimida là nhóm tuyến trùng còn được nghiên cứu rất ít ở Việt Nam. Tính đến trước năm 2010, mới chỉ có 22 loài thuộc 13 giống 9 họ được ghi nhận ở Việt Nam và chỉ có loài Opisthodorylaimus calvacantii được ghi nhận ở khu vực Tây Nguyên (Lâm Đồng) [3]. Gần đây, có 3 loài tuyến trùng thuộc họ Qudsianematidae là Crassolabium aenigmaticum, C. vietnamense ở VQG Pù Mát (Nghệ An) và Labronema neopacificum ở VQG Phước Bình (Ninh Thuận) được ghi nhận vào năm 2010 [8, 2]. Gần đây nhất, ghi nhận mới về loài Thornedia opisthodelphic ở Việt Nam năm 2011 [4] và hai loài tuyến trùng thuộc họ Leptonchidae là: Proleptonchus aestivus và Tyleptus projectus được ghi nhận vào năm 2012 ở VQG Cúc Phương (Ninh Bình) [5]. Hai loài khác thuộc họ Nordiidae là Longidorella xenura và Oriverutus parvus và hai loài thuộc họ Belondiridae là Axonchium thoubalicum và Belondira murtazai được ghi nhận vào năm 2013 [6] cũng ở VQG Cúc Phương (Ninh Bình). Đây là nghiên cứu đầu tiên về khu hệ tuyến trùng sống tự do trong đất thuộc bộ Dorylaimida được thực hiện ở VQG Yok Đôn cũng như ở khu vực Tây Nguyên. I. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Các mẫu đất thu tại VQG Yok Đôn vào tháng 10/2012 và được tách lọc tuyến trùng theo phương pháp rây lọc tĩnh được cải tiến trên cơ sở phương pháp phễu lọc Baermann. Tuyến trùng sau đó được xử lý nhiệt ở 60ºC và được cố định trong dung dịch TAF. Quá trình làm trong tuyến trùng và lên tiêu bản cố định theo phương pháp của Seinhost, 1959 [7]. Phân tích, định loại tuyến trùng bằng kính hiển vi .