Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu xác định giá trị bảng câu hỏi trắc nghiệm ACT và so sánh với tiêu chuẩn GINA 2006 trong đánh giá mức độ kiểm soát hen phế quản. Nghiên cứu thực hiện nghiên cứu cắt ngang với 124 bệnh nhân hen phế quản đến khám và điều trị tại BV. Đại học Y Dược từ tháng 2/2006-2/2007. | Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010 Nghiên cứu Y học ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ KIỂM SOÁT HEN PHẾ QUẢN BẰNG BẢNG TRẮC NGHIỆM ACT Lê Văn Nhi* TÓM TẮT Đặt vấn ñề: Hen phế quản (HPQ) là vấn ñề sức khỏe trầm trọng trên toàn Thế Giới, mọi lứa tuổi ñều có thể mắc phải và có xu thế gia tăng. Khi không ñược kiểm soát, HPQ có thể trở nên nặng làm giới hạn cuộc sống hàng ngày và ñôi khi ñưa ñến tử vong. Trong thực hành lâm sàng, thường ñánh giá mức ñộ kiểm soát HPQ theo tiêu chuẩn GINA. Tuy nhiên, cách ñánh giá này khó ñược áp dụng rộng rãi do có tiêu chuẩn về ño chức năng hô hấp và không phải mọi tuyến y tế cơ sở ñều có thể thực hiện ñược ño chức năng hô hấp cho mọi bệnh nhân HPQ. Sự ra ñời của bảng trắc nghiệm kiểm soát HPQ (Asthma Control Test) ñã ñáp ứng ñược tính ñơn giản, rẻ tiền, tiện lợi, dễ hiểu, không cần ño chức năng hô hấp, cho kết quả nhanh chóng, khá chính xác về mức ñộ kiểm soát HPQ và ñã ñược chứng minh về tính hiệu quả tại nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, giá trị của bảng câu hỏi ñể ñánh giá mức ñộ kiểm soát HPQ trong ñiều kiện thực tế Việt Nam chưa từng ñược xem xét. Mục tiêu: Xác ñịnh giá trị bảng câu hỏi trắc nghiệm ACT và so sánh với tiêu chuẩn GINA 2006 trong ñánh giá mức ñộ kiểm soát hen phế quản. Đối tượng và phương pháp: Thực hiện nghiên cứu cắt ngang với 124 bệnh nhân hen phế quản ñến khám và ñiều trị tại BV. Đại học Y Dược từ tháng 2/2006 – 2/2007. Kết quả: Qua nghiên cứu cho thấy tỉ lệ kiểm soát ñược hen phế quản hoàn toàn theo tiêu chuẩn GINA cao hơn so với tiêu chuẩn ACT (p=0,032), trong khi ñó tỉ lệ kiểm soát ñược HPQ một phần theo tiêu chuẩn ACT lại có tỉ lệ cao hơn so với tiêu chuẩn GINA (p=0,033). Tỉ lệ không kiểm soát ñược HPQ ở 2 tiêu chuẩn là như nhau (p=0,34) và khi so sánh chung nhóm bệnh nhân có mức ñộ kiểm soát HPQ hoàn toàn và kiểm soát HPQ một phần ñược ñánh giá theo GINA 2006 (88/124 – 70,97%) và theo bảng trắc nghiệm ACT (85/124 – 68,55%) thì sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,08). Kết luận: Kiểm soát