Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này nhằm đánh giá đặc điểm sa trực tràng kiểu túi ở bệnh nhân rối loạn chức năng sàn chậu bằng cộng hưởng từ động. bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết của đề tài nghiên cứu này. | Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 ĐÁNH GIÁ ĐẶC ĐIỂM SA TRỰC TRÀNG KIỂU TÚI Ở BỆNH NHÂN RỐI LOẠN CHỨC NĂNG SÀN CHẬU BẰNG CỘNG HƯỞNG TỪ ĐỘNG Võ Tấn Đức* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Sa trực tràng kiểu túi là sự phồng hoặc sa thành trước trực tràng vào thành sau âm đạo. Bệnh thường phổ biến với biểu hiện lâm sàng đa dạng, không đặc hiệu và thăm khám lâm sàng dễ chẩn đoán nhầm lẫn và / hoặc bỏ sót sa các tạng khác của vùng chậu. Hình ảnh học đánh giá chức năng động sàn chậu là một phương tiện không thể thiếu trong chẩn đoán, đặc biệt là cộng hưởng từ. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Các bệnh nhân có biểu hiện rối loạn chức năng sàn chậu được khám và chỉ định chụp cộng hưởng từ động tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM bởi những bác sĩ chuyên khoa hậu môn trực tràng, tiết niệu và phụ khoa. Kết quả: Có 1683 bệnh nhân trong nghiên cứu từ tháng 01/2008 đến tháng 06/2012. Chủ yếu là nữ tuổi trung niên và đã từng sinh con. Tỉ lệ STTKT là 77,9% với độ sâu túi 2-4cm và kiểu hình thái dạng ngón tay chiếm đa số, kích thước > 2cm và hình thái kiểu túi có nguy cơ ứ đọng cao. Yếu tố tuổi và đã từng sinh con có mối liên hệ với STTKT có ý nghĩa thống kê (p 0,5cm so với vị trí bình thường. Túi này có thể được phân loại theo độ sâu của túi (độ I: 4cm) hay xếp loại hình thái túi sa theo tác giả Marti (loại I: kiểu hình ngón tay; loại II: kiểu hình túi; loại III: túi sa kèm lồng hoặc sa trực tràng). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Bề dày cơ mu trực tràng trong thì rặn lớn hơn trong thì nghỉ. Các triệu chứng lâm sàng chia 5 nhóm: (1): Rối loạn đại tiện với đại tiện 0,3cm lõm vào thành trực tràng khi rặn. Nếp gấp này có thể là niêm mạc hay toàn thành trực tràng. Phân biệt lồng trực-trực tràng khi khối lồng còn nằm trong trực tràng, lồng trực lồng sa hẳn ra ngoài. Bệnh co thắt cơ mu trực tràng được chẩn đoán dựa vào các yếu tố gợi ý sau: Góc hậu môn-trực tràng giảm hoặc tăng ít trong thì rặn so với thì nghỉ. Nghiên cứu của chúng tôi có 1683 .