Mùa vụ xuất hiện và phân bố nguồn giống cá kèo (pseudapocrypte elongatus) ở vùng ven biển Trà Vinh

Nội dung bài viết đánh giá về hiện trạng con giống tự nhiên, sự xuất hiện bãi giống để có định hướng trong việc khai thác và nuôi trồng trong thời gian tới ở Trà Vinh. Mời các bạn tham khảo! | HỘI NGHỊ KHOA HỌC TOÀN QUỐC VỀ SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT LẦN THỨ 4 MÙA VỤ XUẤT HIỆN VÀ PHÂN BỐ NGUỒN GIỐNG CÁ KÈO (PSEUDAPOCRYPTE ELONGATUS) Ở VÙNG VEN BIỂN TRÀ VINH VÕ VĂN QUANG, TRẦN THỊ LÊ VÂN, TRẦN CÔNG THỊNH Viện Hải dương học Cá Kèo Pseudapocrypte elongatus (Cuvier, 1816), thuộc họ Cá bống (Gobiidae), phân bố ở vùng ven bờ biển Ấn Độ - Thái Bình Dương; nhiều nhất là khu vực hạ lưu sông Mê Kông [2, 7]. Là loài cá sống đáy, sống trong môi trường nước lợ [2]. Ở Việt Nam Cá kèo phân bố ở vùng ven biển, cửa sông, trong các kênh rạch ven biển và rừng ngập mặn, chúng là đối tượng khai thác của nghề xà ngôn, đáy sông. Trong vài năm ầgn đây, Cá kèo nổi lên là một đối tượng nuôi mang lại lợi nhuận cao, chi phí thấp, được nuôi hầu hết ở các địa phương ven biển thuộc tỉnh Trà Vinh. Tiềm năng nuôi còn rất lớn, nhưng nguồn giống phục vụ cho nuôi được cung cấp từ thu thập tự nhiên. Bất cập lớn nhất trong việc sử dụng nguồn giống là khai thác quá mức cả con giống có kích thước nhỏ để nuôi, trong khi đó đàn cá bố mẹ cũng bị khai thác cạn kiệt. Bên cạnh đó do nhu cầu phát triển kinh tế nhiều diện tích rừng ngập mặn bị tàn phá làm mất đi nơi ở, bãi đẻ và bãi ương dưỡng, nơi sống của Cá kèo. Chính vì vai trò của Cá kèo đối với các vùng ven biển Trà Vinh nói riêng và các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long trong việc khai thác và phát triển đối tượng nuôi mới, cần thiết phải có đánh giá về hiện trạng con giống tự nhiên, sự xuất hiện bãi giống để có định hướng trong việc khai thác và nuôi trồng trong thời gian tới ở Trà Vinh. I. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mẫu Cá kèo giống được thu bằng lưới giống có miệng lưới hình vuông, diện tích 0,25 m2, kích thước mắt lưới 1 mm. Khi kéo lưới được gắn một lưu tốc kế để tính thể tích nước lọc qua lưới. Lưới được kéo dưới tầng mặt từ 3-5 m tùy theo độ sâu, vận tốc kéo lưới 2 -3 hải lý/giờ. Tiến hành 5 đợt khảo sát vào tháng 12/2008, tháng 02, 04, 07-08 và 09/2009, tổng số mẫu là 82 mẫu, vị trí trạm thu mẫu theo Hình 1. Mẫu sau khi kéo .

Bấm vào đây để xem trước nội dung
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
31    99    2    26-06-2024
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.