Bài viết báo cáo những kết quả nghiên cứu ban đầu về ảnh hưởng của chất trợ nghiền Oleylamine và thời gian nghiền đến các đặc trưng hình thái, cấu trúc và tính chất từ của các hệ hạt kim loại Co được chế tạo bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao. | Vũ Hồng Kỳ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 190(14): 77 - 84 CHẾ TẠO CÁC HẠT KIM LOẠI COBALT BẰNG PHƯƠNG PHÁP NGHIỀN CƠ NĂNG LƯỢNG CAO SỬ DỤNG CHẤT TRỢ NGHIỀN OLEYLAMINE Vũ Hồng Kỳ1,*, Nguyễn Trung Hiếu1, Đỗ Khánh Tùng1, Lê Thị Hồng Phong1, Nguyễn Văn Đăng2, Đỗ Hùng Mạnh1 1 Viện Khoa học vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2 Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Các hạt kim loại Cobalt (Co) với kích thước và hình thái học khác nhau có tiềm năng ứng dụng trong một số lĩnh vực như điện tử, xúc tác, y sinh học. Kỹ thuật tổng hợp, chế tạo các hạt kim loại từ tính để có thể điều khiển được kích thước, cấu trúc vi mô và thành phần được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Trong bài báo này, chúng tôi báo cáo những kết quả nghiên cứu ban đầu về ảnh hưởng của chất trợ nghiền Oleylamine và thời gian nghiền đến các đặc trưng hình thái, cấu trúc và tính chất từ của các hệ hạt kim loại Co được chế tạo bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao. Phân tích các ảnh SEM cho thấy sự đồng tồn tại của các hạt có kích thước lớn sub-micro mét với hình đĩa dẹt và các hạt nano hình tựa cầu với đường kính khoảng 30 nm. Đường cong từ hóa chỉ ra rằng tính chất từ ít thay đổi theo thời gian nghiền. Ảnh hưởng của tham số nghiền đến khả năng tạo chất lỏng từ chứa các hạt lớn (micro) và nhỏ (nano) cũng được phân tích và biện luận. Bên cạnh đó, khả năng sinh nhiệt của chất lỏng từ chứa các hạt nano Co cũng cho thấy tiềm năng ứng dụng trong nhiệt từ trị. Từ khóa: Hạt nano kim loại từ; Cobalt; nghiền cơ năng lượng cao; chất trợ nghiền MỞ ĐẦU* Vật liệu từ tính dạng hạt của các đơn kim loại và lưỡng kim như Fe, Co, Fe-Co, gần đây thu hút nhiều nghiên cứu vì chúng có từ độ bão hòa cao và độ từ thẩm lớn [1-8]. Ví dụ như từ độ bão hòa của các mẫu khối như Fe (~218 emu/g), Fe-Co (~235 emu/g) và Co (~166 emu/g) cao hơn khá nhiều so với mẫu hạt oxit từ phổ biến là Fe3O4 (~100 emu/g) [8, 9]. Hơn nữa, nhờ sự phát triển mạnh mẽ