Nghiên cứu nhằm đánh giá tổn thương tại vùng của 81 trường hợp ung thư thực quản nguyên phát giai đoạn tiến triển bằng siêu âm nội soi thực quản và bằng chụp cắt lớp vi tính lồng ngực, trong đó thực quản trên, giữa và dưới lần lượt là 11, 59 và 11 trường hợp. | ĐỐI CHIẾU CHẨN ĐOÁN CỦA SIÊU ÂM NỘI SOI THỰC QUẢN VỚI CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH LỒNG NGỰC TRONG UNG THƯ THỰC QUẢN GIAI ĐOẠN TIẾN TRIỂN VŨ HỒNG THĂNG - ĐHY Hà Nội, Khoa nội 4 Bệnh viện K VÕ VĂN XUÂN - Khoa xạ 4 Bệnh viện K TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm đánh giá tổn thương tại vùng của 81 trường hợp ung thư thực quản nguyên phát giai đoạn tiến triển bằng siêu âm nội soi thực quản và bằng chụp cắt lớp vi tính lồng ngực, trong đó thực quản trên, giữa và dưới lần lượt là 11, 59 và 11 trường hợp. Tỷ lệ 91,4% bệnh nhân đó cú dấu hiệu nuốt nghẹn đặc và 72,8% gặp ung thư ở 1/3 giữa. Tổn thương sùi loét chiếm 52,4%. Siêu âm nội soi cho thấy khi khối u chiếm hơn nửa chu vi thỡ 100% cú di căn hạch vùng. Siêu âm nội soi phát hiện 76,1% di căn hạch vùng trong khi đó chụp cắt lớp vi tính phát hiện được 49,2% trường hợp. Sự phù hợp chẩn đoán (chỉ số Kappa) giữa 2 biện pháp này mức độ trung bỡnh (0,47). SUMMARY The aim of this study is to compare value of various diagnostic image and discorcodance in 81 cases of locally advanced esophageal carcinoma treated in k hospital that were underwent with endoscopy ultrasonography and CT scanner. In which, cases had trouble swallow with normal food. There is significant related between primary tumor size and metastastic regional lymph nodes. Of whom, CT scanner detected cases with regional lymph nodes as higher that detected by endoscopy ultrasonography. The concordance of two procedures is moderate as . Assess ment of tumor site between these methods is also disconcordant. The combination of various procedures may receive accurate diagnosis for disease stage. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư thực quản (UTTQ) gặp phổ biến nhất nhiều nước trên thế giới và đứng thứ 3 trong các ung thư đường tiêu hóa sau ung thư đại trực tràng và dạ dày. Tại Việt Nam, tỉ lệ mắc UTTQ tại Hà Nội ở nam là 8,7/ và ở nữ là 1,7/100000 dân, bệnh xếp thứ 5 trong 10 bệnh UT phổ biến. Nam giới mắc nhiều hơn nữ và tuổi thường gặp từ 50-60 tuổi [1]. Các biểu hiện lâm sàng .