Kết quả nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial) thường được trình bày qua các chỉ số tương đối như tỉ số nguy cơ (relative risk – RR). Bài viết giới thiệu chỉ số NNT như là một thước đo hiệu quả của một thuật điều trị và cách diễn giải NNT trong bối cảnh lâm sàng. | Đo lường hiệu quả điều trị: Nguy cơ tuyệt đối và số bệnh nhân cần điều trị THỐNG KÊ Y HỌC ĐO LƯỜNG HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ: Nguy cơ tuyệt đối và số bệnh nhân cần điều trị Nguyễn Văn Tuấn* Tóm tắt hỏi quyết định chọn lựa một thuật điều trị phải dựa Kết quả nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên vào chứng cứ từ y văn. Chứng cứ phải được đúc kết (randomized controlled trial) thường được trình bày qua các từ những nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa chỉ số tương đối như tỉ số nguy cơ (relative risk – RR). học có giá trị cao nhất là mô hình nghiên cứu lâm Nhưng RR chỉ có thể áp dụng cho một quần thể hay một nhóm người, chứ không thể áp dụng cho một cá nhân. sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled Những thước đo về hiệu quả của điều trị có thể áp dụng clinical trial – hay viết tắt là RCT), vì đây là một cho từng cá nhân bệnh nhân là những chỉ số mang tính phương pháp hữu hiệu nhất và khách quan nhất để nguy cơ tuyệt đối (absolute risk – AR) và số bệnh nhân cần điều trị (number needed to treat – NNT). Những “thước đo” đánh giá hiệu quả và an toàn của một thuật điều trị. này có thể sử dụng kết hợp với các mô hình tiên lượng để Gọi là “controlled” bởi vì bệnh nhân được tuyển có thể nhận ra những cá nhân có nguy cơ cao và điều trị chọn theo những tiêu chuẩn khách quan đã được thích hợp. Bài này sẽ giới thiệu chỉ số NNT như là một định trước, và bệnh nhân được được theo dõi và thước đo hiệu quả của một thuật điều trị và cách diễn giải NNT trong bối cảnh lâm sàng. chăm sóc trong một môi trường được kiểm soát chặt chẽ và có hệ thống. Gọi là “randomized” bởi vì Abstract bệnh nhân được phân chia thành 2 (hay nhiều Results of randomized controlled trials are often nhóm) một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, không chịu presented in terms of relative risk (RR) or relative risk reduction (RRR). However, RR is a population measure sự tác động của bác sĩ và bệnh nhân. which can only be applied to a group of individuals, not to an Phân .