Bài viết trình bày việc mô tả đặc điểm phẫu thuật cắt bỏ tuyến cận giáp cổ điển và đánh giá kết quả điều trị bằng phẫu thuật cho người bệnh cường tuyến cận giáp tại Khoa Lồng ngực, Bệnh viện Chợ Rẫy, TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 01 - 3 - 2015 đến 28 - 02 - 2018. | Đánh giá sớm kết quả phẫu thuật điều trị bệnh lý cường tuyến cận giáp: Nghiên cứu tại Bệnh viện Chợ Rẫy thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015-2018 TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2019 ĐÁNH GIÁ SỚM KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ CƢỜNG TUYẾN CẬN GIÁP: NGHIÊN CỨU TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2015 - 2018 Vũ Trí Thanh1; Trương Cao Nguyên2 TÓM TẮT Mục tiêu: mô tả đặc điểm phẫu thuật cắt bỏ tuyến cận giáp cổ điển và đánh giá kết quả điều trị bằng phẫu thuật cho người bệnh cường tuyến cận giáp tại Khoa Lồng ngực, Bệnh viện Chợ Rẫy, TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 01 - 3 - 2015 đến 28 - 02 - 2018. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu lâm sàng báo cáo hàng loạt ca bệnh thông qua hồi cứu dữ liệu hồ sơ bệnh án của tất cả bệnh nhân cường tuyến cận giáp được chỉ định phẫu thuật tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả phẫu thuật được đánh giá thành công nếu thỏa mãn cả hai tiêu chí: bệnh nhân có nồng độ PTH đạt ngưỡng điều trị và không có biến chứng xảy ra. Kết quả: 30 bệnh nhân cường tuyến cận giáp, độ tuổi trung bình 42,9 ± 14,3, trong đó 43% nam. Tỷ lệ mắc cường tuyến cận giáp nguyên phát và thứ phát lần lượt là 60% và 40%. Trung bình thời gian gây mê, thời gian mổ và thời gian nằm chờ xuất viện của bệnh nhân nhóm cường tuyến cận giáp nguyên phát ngắn hơn so với nhóm thứ phát (p < 0,05), trong khi đó thời gian nằm hậu phẫu trung bình giữa hai nhóm khác biệt không có ý nghĩa (p > 0,05). 90% bệnh nhân được phẫu thuật viên thực hiện đường mổ cổ giữa, 10% đường cổ bên. 100% bệnh nhân cường tuyến cận giáp nguyên phát có chỉ định cắt 1 tuyến cận giáp, trong khi đó 100% bệnh nhân cường tuyến cận giáp thứ phát có chỉ định cắt nhiều hơn 1 tuyến cận giáp với 4 trường hợp được cắt cả 4 tuyến do có hội chứng Sagliker. 15 trường hợp bị hạ canxi máu trong mổ nhưng đã ổn định trước khi xuất viện, không trường hợp nào có biến chứng do phẫu thuật. Tỷ lệ thành công điều trị cường tuyến cận giáp bằng phẫu thuật 93%. Kết luận: .