Sinh sản nhân tạo cá Lăng chấm (Hemibagrus guttatus Lacépède, 1803) tại Quảng Bình

Nghiên cứu này nhằm mục đích hoàn thiện quy trình sản xuất giống để phát triển nuôi ở tỉnh Quảng Bình và góp phần bảo vệ nguồn lợi cá Lăng chấm nói chung. Kết quả nghiên cứu cho thấy kích thước thành thục sinh dục lần đầu của cá khi nuôi trong ao đất có chiều dài là 66 cm và khối lượng trung bình là 2,87 kg với cá cái; 74 cm và 3,53 kg với cá đực. | Sinh sản nhân tạo cá Lăng chấm (Hemibagrus guttatus Lacépède, 1803) tại Quảng Bình Tạp chí Khoa học–Đại học Huế ISSN 2588–1205 Tập 126, Số 3C, 2017, Tr. 69–76 SINH SẢN NHÂN TẠO CÁ LĂNG CHẤM (HEMIBAGRUS GUTTATUS LACÉPÈDE, 1803) TẠI QUẢNG BÌNH Lê Văn Dân, Lê Tiến Hữu* Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế Tóm tắt: Nghiên cứu này nhằm mục đích hoàn thiện quy trình sản xuất giống để phát triển nuôi ở tỉnh Quảng Bình và góp phần bảo vệ nguồn lợi cá Lăng chấm nói chung. Kết quả nghiên cứu cho thấy kích thước thành thục sinh dục lần đầu của cá khi nuôi trong ao đất có chiều dài là 66 cm và khối lượng trung bình là 2,87 kg với cá cái; 74 cm và 3,53 kg với cá đực. Mùa vụ sinh sản cá Lăng chấm nuôi trong ao bắt đầu từ tháng 4 đến đầu tháng 6. Tỷ lệ thành thục cao nhất đạt 100 % ở cá đực và 67 % ở cá cái vào tháng 6. Tổ hợp chất kích thích phù hợp để sinh sản cá Lăng chấm là LRHa + Dom trong liều quyết định hiệu quả nhất là (30 μg LRHa + 6 mg Dom)/kg cá cái. Ở nhiệt độ 26–28 oC, thời gian hiệu ứng của cá Lăng chấm là 22–25 giờ, tỷ lệ đẻ đạt 100 %. Sức sinh sản thực tế của cá Lăng chấm từ – trứng/kg cá cái. Thời gian nở của trứng dao động từ 68 –72 giờ ở nhiệt độ nước 26–28 oC. Tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở trung bình đạt 48,3–54,4 % và 38,2–47,3 %. Năng suất cá bột trung bình dao động từ 579–966 con/kg cá cái. Từ khóa: cá Lăng chấm, hormone sinh dục, sinh sản nhân tạo, thành thục 1 Đặt vấn đề Cá Lăng chấm (Hemibagrus guttatus Lacépède, 1803) phân bố chủ yếu hầu hết các sông, suối lớn, trên toàn hệ thống sông Hồng, sông Đà và các sông lớn ở phía Bắc như sông Thái Bình, sông Kỳ Cùng, sông Mã, sông Lam (Mai Đình Yên, 1978, 1983). Đây là đối tượng nuôi kinh tế, có chất lượng thịt thơm ngon, giá bán cao. Tuy nhiên, sản lượng khai thác loài cá này liên tục sụt giảm do môi trường sống suy thoái và khai thác quá mức; loại cá này được Sách Đỏ Việt Nam xếp vào mức nguy cấp bậc 2, mức cần bảo vệ gấp (Bộ Khoa học – Công Nghệ và

Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
24    17    1    24-11-2024
12    20    1    24-11-2024
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.