Điều chỉnh rối loạn lipid máu được xem là một trong những biện pháp làm giảm nguy cơ chung về các biến cố tim mạch của bệnh nhân. Mục đích điều trị là giảm nồng độ lipid trong máu hơn là đạt được mục tiêu cụ thể. Statin vẫn là thuốc ưu tiên được lựa chọn để làm hạ lipid máu và nên được kê đơn với tiềm lực và liều dùng phù hợp. | Kê đơn statin làm giảm nguy cơ tim mạch Lời khuyên của thầy thuốc KÊ ĐƠN STATIN LÀM GIẢM NGUY CƠ TIM MẠCH Người dịch: Lê Thị Quỳnh Giang, Lương Anh Tùng Điều chỉnh rối loạn lipid máu được xem là một trong những biện pháp làm giảm nguy cơ chung về các biến cố tim mạch của bệnh nhân. Mục đích điều trị là giảm nồng độ lipid trong máu hơn là đạt được mục tiêu cụ thể. Statin vẫn là thuốc ưu tiên được lựa chọn để làm hạ lipid máu và nên được kê đơn với tiềm lực và liều dùng phù hợp. ĐIỀU TRỊ NGUY CƠ BỆNH TIM MẠCH CHUNG Một trong những thay đổi quan trọng về quản lý rối loạn lipid trong những năm gần đây là chuyển đổi sự tập trung từ việc chỉ điều trị tình trạng tăng lipid máu độc lập sang hướng tiếp cận điều trị làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch chung của bệnh nhân. Việc thay đổi lối sống với mục đích làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch (CVD) là thích hợp với tất cả các bệnh nhân, bao gồm chế độ ăn uống lành mạnh, vận động đều đặn, kiểm soát cân nặng, hạn chế sử dụng đồ uống có cồn và ngừng hút thuốc. Dựa vào đặc điểm lâm sàng của từng bệnh nhân, có thể cần sử dụng các thuốc hạ lipid máu, thuốc hạ huyết áp, thuốc hạ Thông tin chính: glucose máu và thuốc chống kết tập tiểu • Statin là thuốc hạ lipid đầu tay được khuyến cáo ở New Zealand và trong các hướng cầu để làm giảm nguy cơ trên bệnh nhân. dẫn điều trị quốc tế. Việc xác định mức độ nguy cơ bệnh tim mạch thông qua thang điểm hoặc biểu • Quyết định bắt đầu sử dụng statin cần được cân nhắc dựa trên nguy cơ bệnh tim mạch đồ đánh giá nguy cơ giúp cung cấp thông của từng bệnh nhân, lợi ích có thể đạt được của liệu pháp điều trị cũng như nguy cơ gặp tin ban đầu để trao đổi về liệu pháp điều các tác dụng không mong muốn. trị được khuyến cáo và kỳ vọng của bệnh nhân đối với can thiệp. • Hiện tại, bằng chứng ở mức độ hạn chế cho thấy lợi ích nhỏ của việc bổ sung ezetimib trong dự phòng thứ phát, tuy nhiên, có rất ít bằng chứng liên quan đến việc