Bài viết trình bày việc xác định tỷ lệ Klebsiella pneumoniae đề kháng kháng sinh mang gen KPC, NDM và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng khác. | Tình hình Klebsiella pneumoniae mang gen kháng carbapenem trên bệnh nhân nhi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học TÌNH HÌNH KLEBSIELLA PNEUMONIAE MANG GEN KHÁNG CARBAPENEM TRÊN BỆNH NHÂN NHI Bùi Thế Trung*, Trần Thiện Trung**, Nguyễn Tuấn Anh** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tỷ lệ đề kháng kháng sinh nhóm carbapenem của Klebsiella pneumoniae ngày càng tăng. Nguyên nhân chủ yếu là do vi khuẩn này tiết men carbapenemase. Hai trong số các gen phổ biến và quan trọng của men carbapenemase là Klebsiella pneumoniae carbapenemase (KPC) và New Delhi metallo-β-lactamase (NDM). Mục tiêu: Xác định tỷ lệ Klebsiella pneumoniae đề kháng kháng sinh mang gen KPC, NDM và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng khác. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Trong 89 mẫu bệnh phẩm (không lặp lại) dương tính với Klebsiella pneumoniae có biểu hiện kháng trung gian hoặc kháng với một trong các kháng sinh thuộc họ carbapenem, tỷ lệ gen NDM và KPC lần lượt là 37,1% (33/89) và 4,5% (4/89). Không có chủng nào mang cả 2 gen KPC và NDM. Tỷ lệ Klebsiella pneumoniae mang gen KPC hoặc NDM nhiều nhất là 64,9% (24/37) ở bệnh phẩm có nguồn gốc từ đường hô hấp dưới. Không có bệnh phẩm nước tiểu nào phân lập được Klebsiella pneumoniae mang gen KPC hoặc NDM. 100% (37/37) chủng Klebsiella pneumoniae mang gen KPC hoặc NDM sinh men ESBL và đồng thời đề kháng ertapenem, imipenem hoặc meropenem. Kết luận: Tỷ lệ Klebsiella pneumoniae mang gen NDM và KPC lần lượt là 37,1% và 4,5%. Có mối liên hệ giữa tỷ lệ Klebsiella pneumoniae mang gen KPC và NDM với khả năng sinh ESBL và sự đề kháng ertapenem, imipenem hoặc meropenem. Từ khóa: Klebsiella pneumoniae, carbapenemase, gene kháng carbapenem, KPC, NDM. ABSTRACT EMERGENCE OF CARBAPENEM RESISTANT KLEBSIELLA PNEUMONIAE POSSESSING KPC AND NDM GENES IN HOSPITALIZED PEDIATRIC PATIENTS Bui The Trung, Tran Thien Trung, Nguyen Tuan Anh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine *