Cá phèn khoai (Upeneus japonicus) là một trong những đối tượng hải sản khai thác chính bằng nghề lưới kéo đáy và nghề rê đáy ở vùng đánh cá chung vịnh Bắc Bộ. Cá phèn khoai là loài đồng sinh trưởng, hệ số đồng hóa (b) dao động trong khoảng từ 2,07 đối với cá đực đến 2,10 với cá giống cái và hệ số dị hóa (a) dao động trong khoảng 0,013×104 - 0,026×104. | Biến động nguồn lợi và một số đặc điểm sinh học cá phèn khoai (Upeneus japonicus Houttuyn, 1782) ở vùng đánh cá chung vịnh Bắc Bộ Việt Nam - Trung Quốc (giai đoạn 2013-2015) Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 17, Số 2; 2017: 186-197 DOI: BIẾN ĐỘNG NGUỒN LỢI VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÁ PHÈN KHOAI (Upeneus japonicus Houttuyn, 1782) Ở VÙNG ĐÁNH CÁ CHUNG VỊNH BẮC BỘ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC (GIAI ĐOẠN 2013 - 2015) Mai Công Nhuận*, Nguyễn Khắc Bát Viện Nghiên cứu Hải sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn * E-mail: mcnhuan@ Ngày nhận bài: 4-4-2016 TÓM TẮT: Cá phèn khoai (Upeneus japonicus) là một trong những đối tượng hải sản khai thác chính bằng nghề lưới kéo đáy và nghề rê đáy ở vùng đánh cá chung vịnh Bắc Bộ. Cá phèn khoai là loài đồng sinh trưởng, hệ số đồng hóa (b) dao động trong khoảng từ 2,07 đối với cá đực đến 2,10 với cá giống cái và hệ số dị hóa (a) dao động trong khoảng 0,013×104 - 0,026×104. Chiều dài thành thục Lm50 của cá cái là 126 mm và của cá đực là 116 mm. Trong khoảng thời gian nghiên cứu từ năm 2013 đến năm 2015 năng suất khai thác trung bình dao động từ 0,12 kg/h đến 0,40 kg/h. Mật độ phân bố trung bình dao động từ 4,22 kg/km2 đến 12,40 kg/km2. Trữ lượng nguồn lợi tức thời của loài cá này ước tính dao động từ tấn đến tấn, trung bình khoảng tấn và khả năng khai thác cho phép khoảng tấn. Từ khóa: Năng suất, mật độ, trữ lượng, kéo đáy, rê đáy. MỞ ĐẦU Bắc Bộ. Hiện nay, cùng với sự gia tăng áp lực khai thác, trữ lượng nguồn lợi cá phèn khoai Cá phèn khoai (Upeneus japonicus) thuộc thể hiện xu hướng suy giảm. Vì vậy, nghiên họ cá phèn (Mullidae) loài cá này phân bố ở cứu biến động quần thể của loài từ đó góp phần khu vực Tây Thái Bình Dương: Từ Đài Loan, cung cấp cơ sở khoa học cho việc phục hồi và Hồng Kông, Nam Triều Tiên đến vùng biển phát triển nguồn lợi của loài cá này là