Ứng dụng công nghệ ghép tế bào gốc từ mô mỡ và PRP trong điều trị thoái hóa khớp gối

Thoái hóa khớp gối là bệnh thoái hóa tiến triển, liên quan đến hệ thống tự miễn và phản ứng viêm. Có 2 yếu tố được đưa ra và không thể tách rời nhau: yếu tố cơ học và yếu tố tế bào. Các yếu tố cơ học được coi là hiện tượng ban đầu của các vết nứt hình sợi và các vi gãy xương do suy yếu collagen. Từ những yếu tố tấn công cơ học đó gây ra sự hoạt hóa và giải phóng enzyme trong quá trình thoái biến chất cơ bản gây ra sự phá hủy sụn khớp và sự tạo khớp bị suy giảm. | Ứng dụng công nghệ ghép tế bào gốc từ mô mỡ và PRP trong điều trị thoái hóa khớp gối Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ GHÉP TẾ BÀO GỐC TỪ MÔ MỠ VÀ PRP TRONG ĐIỀU TRỊ THOÁI HÓA KHỚP GỐI Nguyễn Đình Phú *, Trần Đặng Xuân Tùng** TÓM TẮT Đặt vấn đề : Thoái hóa khớp gối là bệnh thoái hóa tiến triển, liên quan đến hệ thống tự miễn và phản ứng viêm. Có 2 yếu tố được đưa ra và không thể tách rời nhau: yếu tố cơ học và yếu tố tế bào. Các yếu tố cơ học được coi là hiện tượng ban đầu của các vết nứt hình sợi và các vi gãy xương do suy yếu collagen. Từ những yếu tố tấn công cơ học đó gây ra sự hoạt hóa và giải phóng enzyme trong quá trình thoái biến chất cơ bản gây ra sự phá hủy sụn khớp và sự tạo khớp bị suy giảm. Hậu quả là bề mặt sụn khớp bị mỏng dần, xơ hóa và biểu hiện sàng là đau và hạn chế vận động khớp. Mục tiêu điều trị bằng phương pháp cấy ghép tế bào gốc chính là giảm sự hoạt hóa và giải phóng enzyn gây hủy bề mặt sụn khớp và giúp tái tạo lại bề mặt sụn khớp. Mục tiêu: Chúng tôi đánh giá kết quả điều trị sau 6 tháng bằng phương pháp ghép tế bào gốc ở những bệnh nhân thoái hóa khớp gối độ 2-3 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 16 bệnh nhân thoái hóa khớp gối độ 2-3 được điều trị bằng phương pháp nội soi cắt lọc hoạt mạc viêm và bơm tế bào gốc tự thân, được xếp vào nhóm nghiên cứu theo dõi trong 6 tháng, 12 tháng, 18 tháng. 16 bệnh nhân thoái hóa khớp gối được điều trị bằng phương pháp nội soi cắt lọc hoạt mạc viêm được xếp vào nhóm đối chứng, theo dõi trong 6 tháng, 12 tháng, 18 tháng. Nghiên cứu can thiệp, có đối chứng. Kết quả: tuổi trung bình là 59 ± 3,8 và 59 ± 4,3 lần lượt ở nhóm nghiên cứu và nhóm đối chứng, nữ/nam = 15/3 ở nhóm nghiên cứu và 14/4 ở nhóm đối chứng, thang điểm Womac giảm trung bình 27,39 điểm, thang điểm Lyshom tăng trung bình là 26,6 điểm, so với nhóm đối chứng tương ứng giảm 22,53 điểm và tăng 15,6 điểm. Kết luận: Sau 6 tháng theo dõi, .

Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
12    25    1    27-11-2024
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.