Trong nghiên cứu này, cấu trúc và các tính chất năng lượng của một số closo-hydroborate dianion BnHn 2- (n = 5-12) được khảo sát một cách chi tiết bằng lý thuyết phiếm hàm mật độ (DFT). Phiếm hàm lai hóa B3LYP được sử dụng kết hợp với bộ cơ sở tương quan aug-cc-pVTZ. Dạng hình học tối ưu được xác định và cơ chế phát triển cấu trúc được thiết lập. | Cấu trúc và độ bền của các closo-hydroborate dianion BnHn 2– (n = 5-12) nhìn từ mô hình PSM 68 SCIENCE AND TECHNOLOGY DEVELOPMENT JOURNAL: NATURAL SCIENCES, VOL 2, ISSUE 4, 2018 Cấu trúc và độ bền của các closo-hydroborate dianion BnHn2– (n = 5-12) nhìn từ mô hình PSM Phạm Vũ Nhật, Mã Quốc Vĩ, Trần Thị Ngọc Thảo Tóm tắt—Trong nghiên cứu này, cấu trúc và các Đã có nhiều nghiên cứu cả lý thuyết và thực tính chất năng lượng của một số closo-hydroborate nghiệm dành cho các borane cluster kể từ khi dianion BnHn2- (n = 5-12) được khảo sát một cách chi chúng được tổng hợp vào đầu thế kỷ XX [3]. Sự tiết bằng lý thuyết phiếm hàm mật độ (DFT). Phiếm bùng nổ trong nghiên cứu về borane bắt đầu vào hàm lai hóa B3LYP được sử dụng kết hợp với bộ cơ cuối những năm 1940 khi nhóm hợp chất này sở tương quan aug-cc-pVTZ. Dạng hình học tối ưu được xem là nhiên liệu tên lửa đầy hứa hẹn thay được xác định và cơ chế phát triển cấu trúc được thiết lập. Năng lượng phân mảnh nhóm BH, chênh thế cho nhiên liệu hydro-carbon cổ điển [4]. Năm lệch năng lượng bậc hai và khoảng cách HOMO- 1976, giải Nobel hóa học đã được trao cho . LUMO cũng được tính toán nhằm đánh giá độ bền Lipscomb nhằm ghi nhận những đóng góp quan của các cluster. Kết quả tính toán cho thấy trong số trọng của ông trong lĩnh vực borane. Đến thời các cluster được khảo sát B6H62– và B12H122– đặc biệt điểm này, nghiên cứu về borane vẫn là một lĩnh bền với cấu trúc electron bão hòa. Số electron hóa vực thu hút nhiều nhà hóa học lý thuyết không trị của chúng tương ứng với những con số kỳ diệu những do sự độc đáo về mặt hóa học, mà còn xuất theo mô hình PSM (phenomenological shell model). phát từ những thách thức về mặt cấu trúc và liên Từ khóa—Borane cluster, các phép tính DFT, kết mà chúng mang lại. B12H122–, mô hình PSM. Những nghiên cứu tiên phong của Lipscomb, 1 MỞ ĐẦU Wade, và Mingos [5-7] ghi nhận mối tương quan giữa số electron hóa trị, công thức phân tử và hình oron