Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này bao gồm 142 trẻ có HCTH nguyên phát kháng steroid được điều trị tại khoa Thận Nội tiết bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 8 năm 2005 đến tháng 2 năm 2019. Các biểu hiện lâm sàng lúc khởi bệnh, chẩn đoán mô bệnh học thận, điều trị và diễn tiến bệnh được hồi cứu. Kết cục được phân tích là tiến tới BTGĐC. Tỷ lệ khả năng sống không BTGĐC được tính theo Kaplan-Meier, kiểm định log-rank để so sánh các đường cong sống còn và phân tích tỷ lệ nguy cơ Cox để xác định các yếu tố khác nhau trên sống còn của thận. | Hội chứng thận hư nguyên phát kháng Steroid ở trẻ em: Theo dõi lâu dài và các yếu tố nguy cơ của bệnh thận giai đoạn cuối Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học HỘI CHỨNG THẬN HƯ NGUYÊN PHÁT KHÁNG STEROID Ở TRẺ EM: THEO DÕI LÂU DÀI VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA BỆNH THẬN GIAI ĐOẠN CUỐI Nguyễn Đức Quang*, Vũ Huy Trụ*, Thân Thị Thúy Hiền*, Lê Minh Cường*, Võ Thị Thanh Trang* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hội chứng thận hư (HCTH) nguyên phát kháng steroid ở trẻ em là một trong những nguyên nhân thường gặp nhất tiến triển tới bệnh thận giai đoạn cuối (BTGĐC). Nhiều chiến lược điều trị được áp dụng nhưng chưa có chọn lựa tối ưu để chữa khỏi bệnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này bao gồm 142 trẻ có HCTH nguyên phát kháng steroid được điều trị tại khoa Thận Nội tiết bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 8 năm 2005 đến tháng 2 năm 2019. Các biểu hiện lâm sàng lúc khởi bệnh, chẩn đoán mô bệnh học thận, điều trị và diễn tiến bệnh được hồi cứu. Kết cục được phân tích là tiến tới BTGĐC. Tỷ lệ khả năng sống không BTGĐC được tính theo Kaplan-Meier, kiểm định log-rank để so sánh các đường cong sống còn và phân tích tỷ lệ nguy cơ Cox để xác định các yếu tố khác nhau trên sống còn của thận. Kết quả: Tuổi trung vị lúc khởi bệnh là 4,54 tuổi (từ 1,03 đến 14,14 tuổi), tỷ lệ nam/nữ là 1,73/1. Biểu hiện ban đầu của HCTH gồm phù 100%, cao huyết áp 11,3%, tiểu máu 36,6% và giảm độ lọc cầu thận phỏng đoán < 60ml/phút/1,73m2 7,8%. Kháng steroid sớm chiếm 45,8%. Sinh thiết thận ghi nhận 72,5% là sang thương tối thiểu và 27,5% là xơ hóa cầu thận khu trú từng phần. Trong 133 ca được điều trị cyclosporin, 69,2% lui bệnh hoàn toàn, 22,6% lui bệnh một phần và 8,3% không lui bệnh sau 6 tháng điều trị. Trong 22 ca kháng cyclosporin, tacrolimus lần lượt gây lui bệnh ban đầu hoàn toàn, một phần và không lui bệnh ở 18,2%, 40,9% và 40,9%. Điều trị kết hợp tacrolimus, mycophenolate mofetil và prednisone có thể