Nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng của các mật độ và độ mặn khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng để làm cơ sở xây dựng quy trình ương đối tượng này, đồng thời góp phần đa dạng hóa các đối tượng cho nghề nuôi cá vùng nước lợ ven biển ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu gồm hai thí nghiệm về (i) ảnh hưởng của mật độ ương lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng và (ii) ảnh hưởng của độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng. | Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018 ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ VÀ ĐỘ MẶN LÊN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ BỐNG TƯỢNG (Oxyeleotris marmoratus) GIAI ĐOẠN 1 ĐẾN 3 THÁNG TUỔI Trần Ngọc Tuyền1 và Nguyễn Văn Triều2 1 Khoa Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô 2 Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ (Email: tntuyen@) Ngày nhận: 13/7/2018 Ngày phản biện: 29/8/2018 Ngày duyệt đăng: 03/10/2018 TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng của các mật độ và độ mặn khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng để làm cơ sở xây dựng quy trình ương đối tượng này, đồng thời góp phần đa dạng hóa các đối tượng cho nghề nuôi cá vùng nước lợ ven biển ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu gồm hai thí nghiệm về (i) ảnh hưởng của mật độ ương lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng và (ii) ảnh hưởng của độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng. Ở thí nghiệm thứ nhất, cá bống tượng cỡ 535±4,19 mg được ương với 3 nghiệm thức mật độ là 1 con/L (NT1); 2 con/L (NT2) và 3 con/L (NT3). Cá được ương trong hệ thống bể composite 35 lít. Kết quả sau hai tháng ương cho thấy tỷ lệ sống của cá dao động từ 94,4 -95,6% và khác biệt không có ý nghĩa giữa các nghiệm thức. Tăng trưởng của cá nhanh nhất ở mật độ 1 con/L, khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức. Trong thí nghiệm hai, cá bống tượng cỡ 575±3,13 mg được ương với 3 nghiệm thức độ mặn là 5‰ (NT1); 10‰ (NT2) và 15‰ (NT3). Kết quả sau hai tháng ương cho thấy tỷ lệ sống của cá dao động từ 95,5-97,8%, khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) giữa các nghiệm thức. Tuy nhiên ở các độ mặn 5‰ và 10‰ cá tăng trưởng nhanh hơn so với cá ương ở độ mặn 15‰, khác biệt có ý nghĩa thống kê (pTạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018 1. GIỚI THIỆU .