Mục đích của luận án nhằm Nghiên cứu sự thay đổi oxy máu và cơ học phổi trong thông khí nhân tạo tư thế nằm sấp trên bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển. Nhận xét các tai biến có thể gặp khi áp dụng thông khí nhân tạo tư thế nằm sấp trong điều trị bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển. | Tóm tắt Luận án tiến sĩ Y học Nghiên cứu sự thay đổi oxy máu và cơ học phổi trong thông khí nhân tạo tư thế nằm sấp trên bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển ARDS là một tình trạng bệnh lý nặng nề tỷ lệ tử vong từ 40 - 60 . Biểu hiện đặc trưng là tổn thương lan tỏa màng phế nang mao mạch gây giảm oxy máu trơ. Thông khí nhân tạo TKNT với Vt thấp và huy động phế nang là biện pháp thở máy cơ bản hiện nay trong điều trị ARDS. Phương pháp thông khí nhân tạo tư thế nằm sấp ở bệnh nhân ARDS được Piehl áp dụng từ năm 1976. Nhiều nghiên cứu cho thấy TKNT tư thế nằm sấp có tác dụng làm cải thiện oxy máu từ 70 - 80 các trường hợp và làm giảm tổn thương phổi do thở máy. Nghiên cứu của Guerin cho thấy TKNT tư thế nằm sấp làm giảm tỷ lệ tử vong ngày thứ 28 từ 32 8 xuống 16 . Tuy nhiên những lợi ích và nguy cơ của TKNT tư thế nằm sấp hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài Nghiên cứu sự thay đổi oxy máu và cơ học phổi trong thông khí nhân tạo tư thế nằm sấp trên bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển nhằm mục tiêu 1. Nghiên cứu sự thay đổi oxy máu và cơ học phổi trong thông khí nhân tạo tư thế nằm sấp trên bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển. 2. Nhận xét các tai biến có thể gặp khi áp dụng thông khí nhân tạo tư thế nằm sấp trong điều trị bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển. Tính cấp thiết của đề tài Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển ARDS thường gặp trong Hồi sức cấp cứu có tỷ lệ tử vong cao. Bệnh lý đặc trưng của ARDS là tổn thương màng phế nang mao mạch lan tỏa gây hậu quả giảm oxy máu trơ. Tổn thương phổi không đồng đều trong ARDS các phế nang bị căng giãn ở vùng phổi phía xương ức và đông đặc ở phía lưng khi bệnh nhân nằm ngửa. TKNT tư thế nằm sấp có tác dụng làm giảm tình trạng căng giãn phế nang ở vùng phổi phía xương ức và làm mở phế 2 nang ở vùng phổi phía lưng nên làm đồng bộ tỷ lệ thông khí tưới máu VA Q ở các vùng phổi. Từ đó làm cải thiện oxy máu và cơ học phổi cho bệnh nhân. Tuy .