Bệnh nhân ĐTĐ type 2 thường có nguy cơ cao xảy ra biến cố tim mạch. Xuất độ bệnh tật và tử vong do biến chứng mạch máu lớn vẫn luôn nhiều hơn biến chứng mạch máu nhỏ. Kiểm soát đường huyết tốt là mục tiêu khuyến cáo để giảm thiểu các biến chứng mạn tính, tuy vậy tác động của nó như thế nào trên tim mạch, vàdùng các thuốc hạ đường huyết liều cao - phối hợp - cả đời có thể góp phần tăng biến cố tim mạch cho người bệnh ĐTĐ vẫn chưa rõ ràng. Bài viết trình bày một số chứng cứ về mức kiểm soát đường huyết qua chỉ số HbA1c liên quan đến lợi ích tim mạch. | Kiểm soát đường huyết và biến chứng tim mạch ở người bệnh đái tháo đường type 2 nghiên cứu khoa học KIỂM SOÁT ĐƯỜNG HUYẾT VÀ BIẾN CHỨNG TIM MẠCH Ở NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 Lê Tuyết Hoa Bộ Môn Nội ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch TÓM TẮT Xuất độ bệnh tật và tử vong do biến chứng mạch máu lớn vẫn luôn nhiều hơn biến chứng mạch máu nhỏ ở người bệnh ĐTĐ type 2. Kiểm soát đường huyết lt 7 được khuyến cáo trong các hướng dẫn để giảm biến chứng mạn tính. Tuy nhiên mục tiêu này có tác động thế nào trên tim mạch vẫn còn bàn cãi. Các nghiên cứu lớn như UKPDS ADVANCE ACCORD và VADT cho kết quả lợi ích của kiểm soát đường huyết tích cực trên tim mạch khác nhau bởi nhiều điểm không tương đồng đặc điểm của dân số nghiên cứu chênh lệch trị số HbA1c đạt được giữa hai nhóm thời gian theo dõi. Tuy nhiên phân tích gộp các nghiên cứu trên cho thấy kiểm soát đường huyết tích cực chỉ giảm được nhồi máu cơ timmới và biến cố tim mạch chính không ảnh hưởng đến đột quy tử vong tim mạch và tử vong chung. Theo dõi 5-10 năm sau các thử nghiệm trên cho biết lợi ích của kiểm soát đường huyết tích cực những năm đầu một khi hiện diện vẫn duy trì được trong nhiều năm sau dù đường huyết lúc này không còn chặt chẽ như trước. Bài học quan trọng nhất từ các nghiên cứu có lẽ là khi kiểm soát đường huyết tích cực chỉ thấy lợi ích rõ ở người không có bệnh tim mạch hoặc bệnh ở giai đoạn sớm không thấy ở người bệnh tiến HbA1c nhắm đến và an toàn cho tim mạch rất có thể là từ 7 - nghiên cứu khoa học giảm rõ rệt. Riêng thử nghiệm ACCORD tuy phải IGC lên từng kết cục kiểm soát IGC giảm được chấm dứt sớm 17 tháng trước dự kiến vì tần suất 15 xuất mắc mới nhồi máu cơ tim HR 95 hạ đường huyết gấp 3 lần tăng cân thêm gt 10 kg CI và 10 biến cố tim mạch chính HR gấp hai lần và tử vong tăng 22 ở nhóm IGC so trong trung bình năm theo dõi với nhóm thường qui nhưng xét riêng NMCT thì nhưng không ảnh hưởng đến đột quy tử vong thấp rõ ở những người còn sống nhận điều trị tích