Ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu entecavir ở bệnh nhân xơ gan do virus viêm gan B. Nghiên cứu này nhằm khảo sát đáp ứng về mặt lâm sàng, sinh hóa, virus và mối liên quan giữa đáp ứng virus với một số đáp ứng lâm sàng và sinh hóa ở bệnh nhân xơ gan do HBV được điều trị bằng entecavir. | Nghiên cứu đáp ứng về lâm sàng sinh hóa và virus ở bệnh nhân xơ gan do virus viêm gan B điều trị bằng entecavir Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9 số 6 7 tháng 12 2019 Nghiên cứu đáp ứng về lâm sàng sinh hóa và virus ở bệnh nhân xơ gan do virus viêm gan B điều trị bằng entecavir Đoàn Hiếu Trung1 Trần Xuân Chương2 1 Nghiên cứu sinh Trường Đại học Y Dược Đại học Huế chuyên ngành Nội tiêu hoá 2 Bộ môn Truyền nhiễm Trường Đại học Y Dược Đại học Huế Tóm tắt Đặt vấn đề Ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu entecavir ở bệnh nhân xơ gan do virus viêm gan B. Nghiên cứu này nhằm khảo sát đáp ứng về mặt lâm sàng sinh hóa virus và mối liên quan giữa đáp ứng virus với một số đáp ứng lâm sàng và sinh hóa ở bệnh nhân xơ gan do HBV được điều trị bằng entecavir. Đối tượng và phương pháp 93 bệnh nhân xơ gan do HBV đến khám và điều trị tại Bệnh viện Đà Nẵng từ 12 2016 đến 06 2019. Trong đó có 59 bệnh nhân xơ gan còn bù và 34 xơ gan mất bù. Thuốc Entecavir BaracludeR 0 5mg ngày và 1 mg ngày đối với xơ gan mất bù uống sau ăn sáng 2 giờ theo dõi trong 12 tháng. Kết quả Điều trị entecavir 12 tháng đem lại sự cải thiện rõ rệt các triệu chứng lâm sàng hay gặp bao gồm chán ăn mệt mỏi vàng da mắt p lt 0 001 và phù p lt 0 01 . Giảm có ý nghĩa điểm Child-Pugh 5 75 1 06 so với 6 43 1 63 điểm . Tỷ lệ bình thường hóa AST và ALT lần lượt là 67 74 và 78 49 trong đó nhóm xơ gan còn bù có tỷ lệ cao hơn so với nhóm mất bù AST 76 27 vs 52 94 ALT 88 14 vs 61 76 . Tỷ lệ bệnh nhân có albumin máu thấp và bilirubin TP cao giảm dần theo thời gian điều trị so với ban đầu lần lượt là 38 7 vs 55 9 p lt 0 05 và 39 8 vs 64 5 p lt 0 01 . Tuy nhiên sự thay đổi này chỉ có ý nghĩa ở nhóm xơ gan còn bù. Tỷ lệ đạt HBV DNA dưới ngưỡng tăng dần theo thời gian điều trị sau 6 tháng là 34 4 và sau 12 tháng đạt 76 3 và không có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Sự cải thiện một số đặc điểm lâm sàng và sinh hóa không có sự khác nhau tại thời điểm kết thúc 12 tháng điều trị giữa 2 nhóm đạt và không đạt tải .