Điều trị bằng nội tiết tố là cách điều trị hiệu quả nhất cho rối loạn vận mạch và hội chứng tiết niệu sinh dục của mãn kinh và đã được chứng minh là ngăn ngừa mất xương và gãy xương. | Bản tuyên bố về điều trị nội tiết năm 2017 của Hội Mãn kinh Bắc Mỹ THỜI SỰ Y HỌC Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN Tập 18 Số 1 Tháng 5 2018 Bản tuyên bố về điều trị nội tiết năm 2017 của Hội Mãn kinh Bắc Mỹ Phan Văn Quyền Tóm tắt Bản Tuyên bố về Điều trị Nội tiết năm 2017 của Hội mãn kinh Bắc Mỹ NAMS- The North American Menopause Society cập nhật Tuyên bố về Điều trị Nội tiết đã có từ năm 2012 và xác định các nhu cầu nghiên cứu trong tương lai. NAMS đã đánh giá tài liệu mới các chứng cứ và đạt được sự nhất trí về các khuyến cáo. Tuyên bố này của NAMS đã được Viện Sức khoẻ Phụ nữ Hoa Kỳ Hiệp hội Nội tiết lâm sàng Hoa Kỳ Hiệp hội Phụ nữ Y khoa Hoa Kỳ Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ và các hiệp hội sinh sản phụ khoa và mãn kinh của nhiều quốc gia như Anh Ý Đức Canada Mexico Cộng hòa Séc Ấn độ Nam phi Trung quốc Đài Loan Thái lan ủng hộ giá trị của tài liệu lâm sàng này như là một công cụ giáo dục. Bản Tuyên bố về Điều trị Nội tiết năm 2017 của NAMS cung cấp các khuyến cáo thực hành lâm sàng tốt nhất dựa trên bằng chứng mới nhất cho việc sử dụng liệu pháp nội tiết Hormone Therapy để điều trị các triệu chứng liên quan đến mãn kinh và xem xét các ảnh hưởng của liệu pháp nội tiết đến tình trạng sức khoẻ ở các giai đoạn khác nhau của cuộc đời phụ nữ. Liệu pháp nội tiết vẫn là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho các rối loạn vận mạch VMS vasomotor symtoms và hội chứng tiết niệu - sinh dục do mãn kinh GSM genitourinary syndrome of menopause và đã được chứng minh là ngăn ngừa loãng xương và gãy xương. Những rủi ro của liệu pháp nội tiết khác nhau tùy thuộc vào loại liều lượng thời gian sử dụng đường dùng thuốc thời điểm bắt đầu và sử dụng phối hợp progestogen. Việc điều trị nên được cá nhân hóa để xác định loại liệu pháp nội tiết thích hợp liều lượng công thức đường dùng và thời gian sử dụng bằng cách sử dụng chứng cứ tốt nhất để tối đa hoá lợi ích và giảm thiểu rủi ro. Đối với phụ nữ dưới 60 tuổi hoặc những người trong vòng 10 năm sau mãn kinh và không có chống chỉ định tỷ lệ