Viêm phổi cộng đồng (VPCĐ) là nguyên nhân chính gây tử vong ở bệnh nhân nhi. Việc sử dụng kháng sinh hợp lý góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả điều trị cho bệnh nhân VPCĐ. Bài viết trình bày khảo sát các tác nhân gây bệnh và việc sử dụng kháng sinh điều trị VPCĐ ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai. | Nghiên cứu Y Học TP. Hồ Chí Minh Tập 24 Số 3 2020 KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG KHÁNG SINH ĐIỀU TRỊ VIÊM PHỔI CỘNG ĐỒNG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG ĐỒNG NAI Đỗ Thị Phương Dung Lưu Việt Thái Nguyễn Trọng Nghĩa Vũ Thị Thanh Thảo Bùi Thị Hương Quỳnh TÓM TẮT Mở đầu Viêm phổi cộng đồng VPCĐ là nguyên nhân chính gây tử vong ở bệnh nhân nhi. Việc sử dụng kháng sinh hợp lý góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả điều trị cho bệnh nhân VPCĐ. Mục tiêu Khảo sát các tác nhân gây bệnh và việc sử dụng kháng sinh điều trị VPCĐ ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai. Đối tượng và phương pháp Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên hồ sơ bệnh án của bệnh nhân BN nhi được chẩn đoán VPCĐ và được chỉ định ít nhất 1 thuốc kháng sinh từ 1 1 2017 đến 31 12 2018 tại bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai. Dữ liệu được thu thập và phân tích từ hồ sơ bệnh án của BN bao gồm các đặc điểm dịch tễ học đặc điểm lâm sàng cận lâm sàng các kháng sinh chỉ định và kết quả điều trị. Tính hợp lý trong chỉ định kháng sinh được đánh giá qua các tiêu chí là loại kháng sinh đường dùng liều dùng và số lần dùng ngày của các kháng sinh đã sử dụng dựa theo khuyến cáo của Bộ Y tế và của bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai. Kết quả Các chủng vi khuẩn thường gặp bao gồm Streptococcus pneumoniae Staphylococci coagulase âm Klebsiella pneumonia 59 . Nhóm kháng sinh được chỉ định nhiều nhất trong toàn đợt điều trị là cephalosporin thế hệ 3 62 76 glycopetid 45 05 và aminoglycosid 43 49 . Trong phác đồ điều trị kinh nghiệm nhóm kháng sinh được chỉ định nhiều nhất là beta lactam 85 đa phần bệnh nhân được chỉ định phối hợp 2 kháng sinh 73 18 . BN được chỉ định phác đồ thay thế với nhóm kháng sinh chủ yếu là glycopeptid vancomycin aminoglycosid và carbapenem. Tỷ lệ sử dụng loại kháng sinh kinh nghiệm hợp lý là 61 7 . Xét trên bệnh nhân có chỉ định loại kháng sinh kinh nghiệm hợp lý tỷ lệ hợp lý về liều dùng đường dùng số lần dùng ngày lần lượt là 86 9 97 0 và 98 7 . Kết luận Việc chỉ định loại kháng sinh chưa phù hợp trong điều trị .