Âm nhạc thế kỷ XX được bắt nguồn từ những thay đổi về quan điểm thẩm mỹ trước những biến động về chính trị, xã hội và sự phát triển nhanh của khoa học kỹ thuật. Ngay từ những năm đầu của của thế kỷ XX, các nhạc sĩ đã có xu hướng sử dụng âm nhạc không điệu tính (atonal) để sáng tác được coi là một thay đổi lớn nhất trong việc tạo ra ngôn ngữ âm nhạc mới và kỹ thuật Dodécaphone chính là một hệ thống hình thức của âm nhạc atonal. | TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT SÁNG TÁC DODÉCAPHONE TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM ÂM NHẠC THẾ KỶ XX NCS. Vi Minh Huy1 Tóm tắt Âm nhạc thế kỷ X X được bắt nguồn từ những thay đổi về quan điểm thẩm mỹ trước những biến động về chính trị xã hội và sự phát triển nhanh của khoa học kỹ thuật. Ngay từ những năm đầu của của thế kỷ XX các nhạc s ĩ đã có xu hướng sử dụng âm nhạc không điệu tính atonal để sáng tác được coi là một thay đổi lớn nhất trong việc tạo ra ngôn ngữ âm nhạc mới và kỹ thuật Dodécaphone chính là một hệ thống hình thức của âm nhạc atonal. Từ khóa âm nhạc atonal kỹ thuậtDodécaphone tiết tấu điệu tính. Thực chất dodécaphone là một hệ thống hình thức của âm nhạc atonal mà ở đó thông thường một tác phẩm viết theo nguyên tắc của âm nhạc dodécaphone luôn chỉ được sáng tác tối đa trong 12 âm thuộc hệ thống chromatique với nguyên tắc cơ bản là mỗi nốt chỉ xuất hiện một lần. 12 âm sử dụng trong tác phẩm này còn được gọi là một serie nốt hàng âm . Từ hàng âm này chúng ta có thể phát triển tác phẩm bằng cách sử dụng các dạng của chúng dạng nguyên thể ký hiệu trong tất cả các sách giáo khoa trên thế giới là P dạng đi giật lùi từ cuối lên đầu ký hiệu là R dạng soi gương ký hiệu là I dạng đi giật lùi kết hợp với soi gương ký hiệu là RI . Ngoài việc sử dụng bốn chiều gốc của hàng âm thì mỗi chiều đều có thể chuyển dịch 12 lần nửa cung. Theo lý thuyết tập hợp các sự chuyển dịch đó đều qui ước bằng hướng đi lên . Như vậy một chuyển dịch quãng ba thứ đi lên được gọi là T3 T là chữ viết tắt chỉ sự chuyển dịch và một chuyển dịch như thế mà đi xuống thì được gọi là T9 sở dĩ người ta sử dụng hai cụm từ đi lên và đi xuống là cách nói ẩn bởi việc xếp cao độ ở đây không được định vị trong một quãng tám cố định. Tác phẩm đầu tiên sử dụng serie cao độ là Tổ khúc cho piano op. 25 của Schoenberg 1874 - 1951 12. Trong Praludium của chương này Schoenberg đã sử dụng một serie nốt gọi là hàng âm khởi đầu ký hiệu P cùng ba chiều khác của hàng âm R đi giật lùi có nghĩa là đọc từ phải sang trái .