Mục tiêu nghiên cứu của luận án này là đo lường sự ưa thích rủi ro, nhận thức của người nông dân về rủi ro khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật; đánh giá mức độ tác động của sự ưa thích rủi ro, nhận thức về rủi ro khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đến lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng. | Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học 1. Trần Tiến Khai 2. TS Lê Thanh Loan Phản biện 1 . . Phản biện 2 . . Phản biện 3 . . Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp tại Vào hồi .giờ ngày .tháng .năm . Có thể tìm hiểu luận án tại 4 1. GIỚI THIỆU Bối cảnh nghiên cứu Đồng Bằng Sông Cửu Long ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất Việt Nam. Năm 2018 diện tích gieo trồng của ĐBSCL là 4 185 triệu ha chiếm 54 32 tổng diện tích trồng lúa của cả nước. Tổng sản lượng lúa của ĐBSCL năm 2018 là 9 ngàn tấn chiếm 55 6 sản lượng cả nước TCTK 2018 . Mặc dù diện tích canh tác lúa trong những năm gần đây đang giảm dần nhưng tỷ trọng sản lượng gạo của ĐBSCL vẫn chiếm hơn 55 trong tổng sản lượng gạo cả nước. ĐBSCL cũng là vùng có sản lượng xuất khẩu gạo lớn nhất cả nước. Năm 2017 xuất khẩu gạo của khu vực ĐBSCL đạt 5 5 triệu tấn đạt kim ngạch 2 49 tỷ USD chiếm hơn 93 trong tổng kim ngạch xuất gạo cả nước TCTK 2018 . Các lý do trên khẳng định vị trí và tầm quan trọng của ĐBSCL trong nền sản xuất lúa gạo của Việt Nam. Do đó nghiên cứu về việc canh tác cây lúa tại ĐBSCL không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Tại ĐBSCL thuốc BVTV được các nông dân sử dụng phổ biến. Tuy nhiên việc sử dụng thuốc BVTV tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Nông dân ít sử dụng các thiết bị bảo hộ khi phun thuốc chủ yếu đeo khẩu trang và đội nón mặc dù họ nhận thức được tác hại của thuốc BVTV. Lý do xuất phát từ việc họ cảm thấy không thoải mái khi mặc đồ bảo hộ trong điều kiện khí hậu tại địa phương. Điều này có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe của những người phun thuốc Huỳnh Việt Khải 2014 . Về tính độc của thuốc BVTV được sử dụng nông dân ĐBSCL thường sử dụng các loại thuốc có độ độc loại II và III theo phân loại của WHO . Thuốc BVTV không được sử dụng 5 hợp lý về tần suất thời gian liều lượng và không đảm bảo an toàn trong việc bảo quản. Ngoài ra việc chất thải rắn và lỏng từ quá trình sử dụng thuốc