Trong những năm gần đây cơ cấu bệnh trong cộng đồng thay đổi rất nhanh chóng. Bài viết trình bày được thông tin cập nhật về dịch tễ học, phân loại bệnh thận mạn và suy thận mạn tính; Thực hành chẩn đoán và điều trị bệnh thận mạn theo các giai đoạn. | CẬP NHẬT VỀ DỊCH TỄ HỌC CHẨN ĐOÁN PHÂN LOẠI BỆNH THẬN MẠN SUY THẬN MẠN TÍNH . Hoàng Trung Vinh TS. Phạm Quốc Toản Mục tiêu 1. Trình bày được thông tin cập nhật về dịch tễ học phân loại bệnh thận mạn và suy thận mạn tính. 2. Thực hành chẩn đoán và điều trị bệnh thận mạn theo các giai đoạn. NỘI DUNG 1. Dịch tễ học của bệnh thận mạn - một thách thức lớn Trong những năm gần đây cơ cấu bệnh trong cộng đồng thay đổi rất nhanh chóng. Bên cạnh sự gia tăng của các bệnh thế kỷ thời đại như bệnh tim mạch bệnh ung thư đái tháo đường . thì một số mặt bệnh khác cũng gia tăng đáng kể trong đó có bệnh thận mạn BTM . Bệnh thận mạn gia tăng rất nhanh chóng ở tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ mặc dù cơ cấu của BTM cũng đã khác so với trước. Trong các BTM do tổn thương cấu trúc tiền phát như viêm cầu thận mạn VCTM viêm thận bể thận mạn VTBTM viêm khe thận mạn bệnh mạch máu thận thì mặc dù đã giảm song tỷ lệ VCTM ở Việt Nam vẫn còn cao. Viêm thận bể thận mạn tính và viêm khe thận mạn tính gia tăng liên quan đến các nguy cơ nhiễm khuẩn và chuyển hóa mà hay gặp nhất là sỏi thận u lành tính tiền liệt tuyến viêm khe thận mạn do chuyển hóa trong bệnh Gut tăng acid uric máu nhiễm độc thuốc sử dụng trong điều trị và hóa chất trong sinh hoạt môi trường sống. Bệnh mạch máu thận không gia tăng đáng kể song cũng cần nhấn mạnh có thể còn bỏ sót chẩn đoán. Tỷ lệ BTM gia tăng đặc biệt do tăng các bệnh thận tổn thương thứ phát nhất là tổn thương cầu thận trong đó đáng kể nhất là đái tháo đường và tăng huyết áp ĐTĐ THA . Tỷ lệ bệnh nhân BN mắc BTM trong cộng đồng khám và điều trị tại các cơ 58 sở y tế cũng gia tăng đáng kể. Đặc biệt biến chứng suy thận mạn tính giai đoạn cuối phải điều trị thay thế thận tăng rất nhanh kéo theo sự xuất hiện ngày càng nhiều các cơ sở có thận nhân tạo lọc màng bụng ghép thận những vẫn chưa đáp ứng được so với số lượng BN có chỉ định. Quan sát một số đặc điểm BTM ở Đài Loan nhận thấy Năm 2005 là một lãnh thổ có tỷ lệ BTM GĐC cao nhất Thế giới nhưng sau 4 năm .